Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh để thấy được những điều mắt thấy tai nghe trong những ngày Bác bị giam cầm trong nhà tù của bọn Tưởng Giới Thạch. Bức tranh hiện thực nhà tù và một phần xã hội Trung Quốc đã được thu nhỏ trong bốn câu thơ bảy chữ. Dưới đây là một số bài văn mẫu phân tích bài thơ Lai Tân do Vanmau.com biên soạn
Dàn ý Phân tích bài thơ Lai Tân
I. Mở bài
– Phong cách nghệ thuật trong thơ Hồ Chí Minh rất đa dạng, phong phú nhưng vẫn đồng nhất : Có thơ trữ tình, thơ tự sự, tự trào, có cả thơ châm biếm, đả kích. Nụ cười châm biếm của Người thật nhẹ nhàng, giản dị, dí dỏm mà vô cùng thâm thuý, sâu cay. Tác phẩm “Lai Tân” là một trong những bài đặc sắc nhất cho phong cách của thơ Bác.
II. Thân bài
1. Giới thiệu đôi nét về bài thơ.
– Lai Tân là bài thơ được sáng tác trong khoảng thời gian bốn tháng đầu Hồ Chí Minh bị giam giữ tại các nhà tù quốc dân Đảng ở Quảng Tây – Trung Quốc.
– “Lai Tân” rút ra từ tập “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài thơ mang nội dung phê phán chế độ nhà tù và xã hội Trung Quốc với nghệ thuật châm biếm rất sắc sảo.
2. Phân tích
a. Ba câu đầu: Đó là ba câu tự sự nói về hành vi thường thấy ở ba viên quan lại cai quản nhà ngục Lai Tân.
– Ở đây, dường như Bác không bình luận mà chỉ kể lại sự việc. Nhưng ngẫm cho kỹ, chúng ta thấy ý nghĩa của lời thơ thật sâu xa. Ba đối tượng mà Bác tập trung phê phán chủ yếu là ba đối tượng từ thấp đến cao, những kẻ cầm quyền và quản lý trực tiếp trật tự an ninh địa phương. Đó là những kẻ cầm cân nảy mực thực thi pháp luật, những quan lại “gương mẫu” nhất trong việc vi phạm pháp luật.
– Ban trưởng ngày ngày đánh bạc, cảnh trưởng ăn tiền hối lộ của phạm nhân một cách trắng trợn ; huyện trưởng thì “chong đèn làm công việc” nhưng thực chất “ngài đốt đèn để hút thuốc phiện đấy. Đó là một sự thật trong các huyện đường Quảng Tây dưới thời Tưởng”.
b. Câu cuối cùng: Một kết luận, một đánh giá về tình trạng của bộ máy cai trị nhà tù.
– Người đọc chờ đợi một sự lên án quyết liệt hùng hồn. Nhưng Hồ Chí Minh đã không làm như vậy, mà hạ một câu có vẻ dửng dưng, lạnh lùng: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Song những đòn đả kích độc đáo bất ngờ ấy, thâm thuý sâu cay cũng lại chính là ở chỗ đấy. Thì ra tình trạng thối nát vô trách nhiệm của bọn quan lại ở Lai Tân là chuyện bình thường, trở thành bản chất của bộ máy cai trị ở đây.
– Câu kết, nhất là chữ “thái bình” như ẩn giấu “một tiếng cười khẩy” đầy mỉa mai có ý nghĩa lật tẩy bản chất thối nát của cả bộ máy nhà nước ở Lai Tân. Nhà phê bình Hoàng Trung Thông đã nhận xét “ở đâu đánh giặc thì cứ đánh, còn cái trời đất Lai tân này thì vẫn thái bình như muôn thuở”.
III. Kết bài
– Ở một chỗ khác, Hoàng Trung Thông còn viết tiếp: “một chữ “thái bình” mà trở thành bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thuở của xã hội Trung Quốc, của giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá, nhưng mà thật sự đại loạn là ở bên trong”. (Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác).
Phân tích bài thơ Lai Tân
Vào khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, trên văn đàn Việt Nam đã dần dần có một sự trưởng thành mới. Thi ca giờ đây của Việt Nam không còn bị lệ thuộc vào những quy ước khắt khe của Nho gia rằng tất cả nhà thơ không được bộc lộ cái tài một cách tự do. Bước vào giai đoạn này, mỗi thi sĩ lại hiện diện trên văn đàn với một tư thế rất riêng, của riêng mình. Cũng bởi vì cái riêng này, họ – thi sĩ thời đại mới – đã có những định nghĩa rất khác về thơ. Nếu Xuân Diệu cho rằng
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gióMơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
Thì Hàn Mặc Tử lại nói: “Thi sĩ là người gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Câu hỏi đặt ra rằng “nỗi đau nhân loại” đó là gì? Có thể là nỗi phiền muộn “tương tư” như Nguyễn Bính chăng? Hay là tư thế “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” của Huy Cận? Bên cạnh những nỗi đau trên, Hồ Chí Minh cũng đã “vô tình” thêm vào “nỗi đau nhân loại” kia một góc nhìn rất khác. Đó là góc nhìn vào cái xấu xa, thối nát của xã hội. Không còn chỉ là gói gọn trong “vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” của đất Việt mà đã chạm đến cái mục cửa của xã hội Trung Quốc do chính quyền Tưởng Giới Thạch đứng đầu lúc bấy giờ. Tuy rằng “ngâm thơ ta vốn không ham” nhưng nếu là con người thì Hồ Chí Minh lại thờ ơ với những gì chướng tai gai mắt thế sao? Chỉ gói gọn trong bài thơ “Lai Tân”, tác giả đã nhẹ nhàng nhưng lại đả kích sâu cay một xã hội
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạcGiải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanhChong đèn, huyện trưởng làm công việcTrời đất Lai Tân vẫn thái bình”
Vì là người tù của chế độ Tưởng Giới Thạch nên không có gì khó hiểu khi tác giả lại vẽ ra một bức tranh hiện thực sắc sảo đến thế. Khi lược đọc qua bài thơ, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy một nghịch lý – một nghịch lý rất lớn. Đúng rằng không thể phủ nhận được trong thi ca không được có những nghịch lý. Thi ca vẫn được quyền có những nghịch lý. Những nghịch lý đó đôi khi là cảnh “Hầu trời” của Tản Đà hay làm sao có thể được khi Xuân Diệu lại muốn “cắn” vào “xuân hồng”. Tuy là nghịch lý đấy nhưng tất cả đều mang trong mình một nét dễ thương của con người “ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Nghĩa là tuy nghịch lý về vật chất nhưng lại hợp lý trong tâm khảm.
Cái nghịch lý ở đây mà Hồ Chí Minh đặt ra cũng thế. Cái nghịch lý này giờ đây đã kèm theo chút nóng giận, bực tức. Làm sao có thể được khi một xã hội “ban trưởng chuyên đánh bạc”, “cảnh trưởng” lại “kiếm ăn quanh” mà “trời đất Lai Tân vẫn thái bình”? Quả thật, nếu như định nghĩa rằng “ban trưởng” là người trông coi nhà lao và “cảnh trưởng” là những người có nhiệm vụ giải tù nhân. Tất cả họ dường như đều chung một công việc là giáo dục tù nhân, giúp tù nhân tốt hơn. Nhưng thực tế thì không phải vậy.
Trong cái nghịch lý chủ đạo đã trình bày thì lại đâu đó nhen nhóm lên những nghịch lý khác. Chính là tại sao trong tù lại có cái nạn đánh bạc? Vẫn biết rằng chính xã hội lúc bấy giờ bên Trung Quốc thì món đánh bạc bị luật cấm. Nếu như anh đánh bạc thì không những anh, mà cả vợ con anh cũng bị liên lụy; còn riêng anh, anh phải đi tù. Đó là một thực tế và thực tế này đã được Hồ Chí Minh phác lại qua một lời ăn năn, hối tiếc của tên tù cờ bạc:
“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tộiTrong tù đánh bạc được công khaiBị tù con bạc ăn năn mãiSao trước không vô quắt chốn này?”
Chính bài thơ trên đã vẽ ra rất khéo sự lạm quyền đến khốn nạn của chế độ lúc đó. “Con bạc” kia bị tù là đáng rồi, thích đáng cho việc hắn làm. Nhưng làm sao có thể im lặng được khi cái kẻ bắt mình vì tội đánh bạc thì chính y cũng đánh bạc. Thế là cả cai tù và phạm nhân đều là tòng phạm. Cùng đánh bạc với nhau cả thôi, nếu tôi có tội thì anh cũng chẳng thoát; thế mà lấy cái tư cách gì mà anh bắt tôi? Quả đúng như thế, vị quan kia không có tư cách để “bắt tội” nhưng hắn có quyền. Hắn có quyền, cái quyền mà chế độ Tưởng Giới Thạch đã “ban tặng” cho hắn. Và rồi cái nghịch lý ở đây là nhà lao giờ đây đã bị biến thành sòng bạc “được công khai”. Tại đây, ngay cái nơi mà tù nhân ước gì mình đừng vô đây lại được cấp giấy phép đánh bạc. Ngay cả đến “con bạc ăn năn mãi”: thà lúc trước vào đây đánh bạc để khỏi bị kết tội. Nực cười chăng? Cũng có thể. Chua cay chăng? Cũng có thể. Đau đớn chăng? Cũng có thể. Cái nhà tù Tưởng Giới Thạch là thế đấy!
Và rồi, không chỉ có nạn đánh bạc vậy đâu mà nơi đây còn bị Hồ Chí Minh chụp ảnh lại:
“Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”.
Lại thêm cái nạn hối lộ. Đã quá đong đầy những sự thối nát, mục cửa của nhà tù Tưởng Giới Thạch. Khi bước vào lao tù, phạm nhân luôn ý thức rằng này đây mình sẽ bị đánh, bị đối xử có thể thậm chí như một súc vật. Biết là thế nhưng nếu với ý nghĩa nhà tù là nơi cải tạo phạm nhân thì lại sao có cái tình trạng hối lộ? Nghịch lý! Ở một bài thơ khác, tác giả cũng đã khắc lại cái trớ trêu, cái khốn nạn của thói ăn hối lộ này một cách rất chân thực:
“Mới đến nhà lao phải nộp tiềnLệ thường ít nhất năm mươi nguyênNếu anh không có tiền đem nộpMỗi bước anh đi một bước phiền”
Thì ra cái thói ăn hối lộ là một “lệ thường”. Bây giờ đã rõ đến tận gốc rễ của sự việc. “Cảnh trưởng” dường như có được cái quyền làm cho “mỗi bước anh đi một bước phiền” nếu như tù nhân không có “năm mươi nguyên” đem nộp. Ở nơi “tối tăm mù mịt ấy”, tác giả đã thấy, đã chua xót, đã cay đắng vì cái nghịch lý khốn nạn, trớ trêu này. Dường như tác giả đang tìm một sự hợp lý nào đó.
“Chong đèn, huyện trưởng làm công việc”
Tưởng chừng như “huyện trưởng” là một vị quan rất lo cho dân, rất thương dân nên khi đêm đã về, vạn vật như chìm đắm trong giấc mộng thì ông lại “thiêu đăng” để làm việc. Điều này thật là quý hóa! Nhưng câu hỏi đặt ra nếu như ông ta lo lắng cho dân, cho nước như thế thì tại sao cấp dưới của ông ta lại xảy ra, xuất hiện những thói đời như thế. Phải chăng ông là người có tài nhưng lại bất lực; hay ông cố tình cho qua và “cho phép” cấp dưới được quyền như thế? Vấn đề đặt ra tiếp theo rằng phải chăng “huyện trưởng” đã được cấp dưới đút lót? Đó quả là một câu hỏi lớn – một câu hỏi phải để cho chính chế độ đó trả lời. Một mặt khác, nếu như đánh đồng những đối tượng trong ba câu thơ đầu thì có lẽ “huyện trưởng” hằng đêm “thiêu đăng” để hút thuốc phiện. Không phải một cách cường điệu mà ghép hết tội này đến tội khác cho ông; nhưng dù có cố tìm một lý do chính đáng cho những hành động giữa đêm như thế trong bối cảnh này cũng là khó khăn.
Chỉ cần lướt qua ba câu thơ đầu của “Lai Tân”, người đọc đã có thể thấy đó như một thước phim mà tác giả đang cố tái hiện lại một cách chân thực. Thước phim này chiếu lại một bộ máy cai trị ở Lai Tân gồm “ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng” với những việc làm xem ra là bình thường trong cái xã hội bấy giờ. Bình thường đến mức tầm thường! Thực tế là vậy. Một điều minh nhiên rằng cái xã hội đó sẽ không “thái bình”. Nhưng đến câu cuối bài thơ, với tất cả những sự việc như thế mà tác giả lại kết luận rằng:
“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”
Dường như là dửng dưng và vô cùng nghịch lý. Tuy là thế nhưng tác giả đã đả kích một cách nhẹ nhàng nhưng lại thấm thía. Nhãn tự “thái bình” đồng thời vừa vạch ra một nghịch lý, vừa vẽ ra một hợp lý mang “phong cách” Tưởng Giới Thạch. Phải chăng “thái bình” là do được sự đồng lòng nhất quán từ “cảnh trưởng”, “ban trưởng” đến “huyện trưởng”. Tất cả đều như nhau, cũng thối nát, mục rữa. Lại thêm với nhãn tự “thái bình”, tác giả dường như đang khẳng định rằng tình trạng của chế độ thống trị xã hội Trung Quốc bấy giờ vẫn xảy ra bình thường, không có gì phải lạ cả, thậm chí điều đó gần như là bản chất của guồng máy cai trị ở đây. Chỉ cần như thế thôi, tác giả đã mỉa mai châm biếm cái xã hội dưới thời Tưởng Giới Thạch đó một cách sâu sắc đến vậy. Sâu sắc là bởi thi nhân đã nhìn thấy vào trong cái sự thật đã được che đậy bằng bề mặt giả tạo của bộ máy cai trị này.
Hồ Chí Minh dường như đã thật sự trở thành một thi sĩ vì tác giả đã “gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Thi nhân vừa thương vừa đả kích mạnh mẽ. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thấm thía cùng nhãn tự “thái bình” đặc biệt xen giữa nhịp thơ 4/3 đã giúp thi sĩ hoàn thành “Lai Tân”. Rất chính đáng, vô lý nhưng lại có lý hết lời!
Dàn ý Cảm nhận bài thơ Lai Tân
1. Mở bài: Giới thiệu tác giả Nguyễn Ái Quốc và tập thơ Nhật kí trong tù:
– Nguyễn Ái Quốc, một tượng đài chính trị và văn học trong lịch sử dân tộc Việt Nam, người đã có công cống hiến một số lượng khổng lồ thơ ca vào văn hóa nhân loại.
– Lai tân là một trong những bài thơ nổi bật được sáng tác trong khoảng thời gian tác giả bị giam cầm tại Trung Quốc.
2. Thân bài
– Bài thơ mang đậm màu sắc mỉa mai, châm biếm
+ Bộ mặt thật đằng sau cái mác hào nhoáng của Trung Quốc, ba nhân vật biểu tượng cho các tầng lớp quan chức trong chế độ Tưởng Giới Thạch.
+ “Ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng” đều là những chức vụ có vị trí, quyền lợi, nhưng lại làm những việc khuất tất.
– Những con người được coi là cánh tay đắc lực của chính quyền, trông coi, cải tạo và áp giải tù nhân phạm tội thực chất là những kẻ mạt rệp, những tên tội phạm với nhân cách tha hóa được nhà nước bảo trợ.
– Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
+ Thái bình ở đây là cái vỏ bọc bên ngoài nhằm đánh lừa dân chúng, ẩn sâu bên trong là bộ máy thống trị ngu dốt, thối nát, ngay cả quan lại cũng tha hóa, cặn bã.
+ Mảnh đất Lai Tân thái bình thịnh trị êm ấm thì ra bên trong là như vậy, mở rộng ra là cả xã hội Trung Quốc mục ruỗng đến xương tủy nhưng ngoài mặt vẫn phải tỏ ra thờ ơ, làm như những tệ nạn kia không hề tồn tại.
3. Kết bài
– Khái quát giá trị, đặc sắc bài thơ: Bài thơ hàm súc, ngắn gọn với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã vạch trần bộ mặt thật của đám quan lại tham ô, bẩn tưởi nói riêng và cả bộ máy chính quyền Trung Hoa nói chung thời bấy giờ.
Cảm nhận bài thơ Lai Tân
Ở tập thơ Nhật kí trong tù có rất nhiều bài thơ viết dưới hình thức Nhật kí. Ở đó, Bác đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe, tập hợp những điều này ta được một bức tranh hiện thực về chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch (bài Bốn tháng rồi, Chia nước, Trăng). Điều đáng nói là tác giả không chỉ ghi lại một cách vô tình dửng dưng mà qua những bài thơ này người đọc cảm nhận được thái độ lên án tố cáo sâu sắc. Lai Tân là một bài thơ như vậy. Ba câu thơ đầu là hiện thực được quan sát bằng trực giác: 3 con người, 3 chức vị, 3 hành động rất khác nhau. Đây chính là bức tranh đa dạng nhưng nhốn nháo của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch. “Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ – Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Đánh bạc là hành động quốc cấm vậy mà ban trưởng lại chuyên đánh bạc (thiên thiên đổ). Ngày nào cũng phạm tội, phạm pháp nhưng lại là người duy trì luật pháp.
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền – Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”. Cảnh trưởng tìm cách bòn rút móc túi tù nhân bằng cách đe dọa chuyển lao, giải sang phòng khác. “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự – Chong đèn, huyện trưởng làm công việc”. Huyện trưởng chong đèn làm công sự. Hình ảnh này có hai cách hiểu: thứ nhất, huyện trưởng thường xuyên chong đèn hút thuốc phiện suốt đêm. Thứ hai huyện trưởng chong đèn làm việc vào ban đêm gợi người đọc liên tưởng đến sự khuất tất, tăm tối bất chính chứ không hề mẫn cán. 3 hình ảnh trên đã tạo lên một bức tranh toàn cảnh rất độc đáo về bộ mặt của bọn quan lại Tưởng mà nét nổi bật là sự vụ lợi, hoàn toàn vô trách nhiệm. Đây chính là sự thối nát, mục ruỗng của chế độ Tưởng Giới Thạch.
Câu thơ kết với vị trí là lời kết luận là một cách nhận xét cách đánh giá chung về bộ máy cai trị của chế độ Tưởng Giới Thạch với ý nghĩa mỉa mai châm biếm rất sâu xa. “Lai Tân y cựu thái bình thiên – Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Câu thơ nghe có vẻ dửng dưng vô cảm nhưng nó lại chứa đựng một tiếng cười một sự mỉa mai thâm thúy. Nó bóp trần bộ mặt của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch. Học giả Hoàng Trung Thông từng nhận xét: “Chữ thái bình có thể coi là nhãn tự của nhà thơ. Chỉ một chữ “thái bình” mà xé toang tất cả sự dối trá để người đọc thấy được sự đại loạn bên trong”. Tất cả những sự thối nát kể trên là chuyện bình thường không có gì là bất thường. Từ đây ta có thể suy ra chế độ của Tưởng là đánh bạc bóc lột người tù, hút thuốc phiện ăn đút lót.
Tất cả những điều đó đã trở thành công việc hàng ngày trở thành nề nếp ở đây. Mặt khác bài thơ này ra đời năm 1942, lúc ấy phát xít Nhật đang xâm chiếm Trung Quốc, nhân dân đang chiến đấu hi sinh vì vận mệnh đất nước Trung Quốc đang lâm nguy. Vậy mà bọn quan lại ở đây vẫn ung dung, dửng dưng mặc kệ sự đời mà ra sức vơ vét cho cá nhân, ta càng thấy rõ sự thối nát vô trách nhiệm trước nhân dân, Tổ quốc, của bộ phận quan lại chế độ này. Lai Tân là một bài thơ châm biếm thể hiện rất rõ cốt cách thơ trào phúng của Hồ Chính Minh. Không đao to búa lớn, không chỉ trích gay gắt, cứ nhẹ nhàng mà hiệu quả lại rất cao. Bài thơ cũng thể hiện tài sử dụng ngôn ngữ rất tinh tế, nhẹ mà sâu của tác giả trong bối cảnh lao tù.