Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ mang đến dàn ý và 4 bài văn mẫu hay, đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi. 3 bài văn mẫu Phân tích bài Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Vanmau.com sẽ giúp các bạn học sinh lớp 12 có thêm nhiều gợi ý ôn tập, trau dồi ngôn ngữ, biết cách làm bài văn phân tích hay, đầy đủ các ý để đạt được kết quả cao trong bài thi học kì 2 lớp 12 môn Văn.
Đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ đã khắc họa một cuộc đối thoại sinh động giữa Hồn và Xác để từ đó đi đến kết luận về một cuộc sống thực sự có ý nghĩa, một cuộc sống thể xác và tâm hồn để tìm sự sự dung hòa hợp lí. Vậy dưới đây là 4 bài phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt hay nhất, mời các bạn cùng đón đọc.
Dàn ý phân tích Hồn Trương ba da hàng thịt
I. Mở bài :
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba của vở kịch.
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt cốt truyện.
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, được sáng tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả.Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.
Đoạn trích là phần lớn cảnh VII. Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi nghịch cảnh trớ trêu.
2. Phân tích bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba :
a. Bi kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích bắt đầu bằng lớp thứ nhất của cảnh 7, đó là màn đối thoại giữa Hồn Trương ba và Xác hàng thịt.
– Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:”- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! . Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải . Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.
– Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận : cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với“tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…“. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”,… Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
– Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống, cùng tồn tại. Thể xác có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác cũng trở về cát bụi. Nhờ có linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng. Câu nói của xác hàng thịt: “Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn” đã cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa thể xác và linh hồn, làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.
b. Bi kịch Hồn Trương Ba được đẩy lên tới đỉnh điểm, cao trào ở màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba với những người thân. Đó là bi kịch bị từ chối.
– Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.
– Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân : tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
– Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”
– Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào.
– Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát. Sự do dự bị đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy muộn mằn nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường tự giải thoát, linh hồn đã nhìn thấy ánh sáng.
c. Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba được kết thúc trong màn đối thoại với Đế Thích- Bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”
– Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn… Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
– Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
– Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
d. Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó:
– Trương Ba không chấp nhận buông xuôi: khi không thể thay đổi được xác hàng thịt để xác có thể hoà hợp với hồn, Trương Ba quyết định từ bỏ mối quan hệ với cái xác ấy :”chẳng lẽ nào ta lại chịu thua mày…”,”không cần đến cái đời sống do mày mang lại”.
– Khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình : “không thể bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”. Với Trương Ba, nhu cầu sống cuối cùng vẫn được đánh giá cao hơn nhu cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề“sống như thế nào”là biểu hiện của ý thức cao về sự sống và cách sống để có một cuộc sống hạnh phúc và có ý nghĩa.
– Trong đoạn kết, Trương Ba được giải thoát khỏi bi kịch. Đoạn kết vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” gợi cho độc giả, khán giả nhiều bâng khuâng. Hồn Trương Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao… của vợ con thương yêu. Cho dù thân cát bụi lại trở về cát bụi, nhưng hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.
3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện bi kịch Hồn Trương Ba:
– Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện sự phát triển của tình huống kịch;
– Những đoạn đối thoại nội tâm của Hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật và quan niệm về kẽ sống đúng đắn.
– Đặc biệt, đoạn trích rất thành công trong việc xây dựng đối thoại. Những đối thoại giàu kịch tính, đậm chất triết lí góp phần tạo nên chiều sâu cho vở kịch.
4. Ý nghĩa tư tưởng:
a. Tư tưởng của Lưu Quang Vũ:
– Được sống làm người là rất quý giá song được sống đúng là mình, sống trọn vẹn giá trị mà mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác và tâm hồn.
– Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
b. Đánh giá ý nghĩa của tư tưởng ấy:
– Có ý nghĩa thực tế rất cao bởi đây không chỉ là vấn đề của nhân vật Trương Ba mà còn là vấn đề của con người hiện đại.
III. Kết bài :
Tóm lại, trong đoạn trích, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện một cách sâu sắc và sinh động bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, bi kịch của một con người không được sống toàn vẹn mà mình phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
Qua bi kịch của Hồn Trương Ba, nhà viết kịch tài năng đã gửi tới độc giả nhiều thế hệ những triết lí nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc, sự sống và cái chết, đồng thời phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ, góp phần đấu tranh chống lại sự tha hoá ở mỗi con người trong đời sống hiện nay.
Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 1
Lưu Quang Vũ là một người đa tài, ông hoạt động trong hầu hết lĩnh vực nghệ thuật. Ông vừa có thể viết truyện, làm thơ, am hiểu về hội họa… song có lẽ dấu ấn của ông được khẳng định rõ nhất qua kịch. Kịch của Lưu Quang Vũ giàu tính triết lí mang đậm ý nghĩa nhân văn. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” cũng là một tác phẩm như thế. Đăc biệt đoạn trích cảnh VII của vở kịch thể hiện sáng rõ giá trị nhân văn của toàn vở kịch khi diễn ra xung đột gay gắt giữa hồn và xác và được đẩy lên tới đỉnh điểm.
Trước hết, giá trị nhân văn của một tác phẩm có thể được hiểu là vẻ đẹp, phần sáng trong một con người song phần đẹp đẽ của một con người chỉ thực sự được bộc lộ khi được đặt vào các mâu thuẫn, sự đấu tranh trong hoàn cảnh cụ thể. Ở đó nhân vật luôn cố gắng thoát ra khỏi những bóng tối, những cái xấu xa để khẳng định bản thân mình, vươn tới những giá trị đẹp nhất trong xã hội. Nói như thế, phần nổi bật của giá trị nhân văn là giá trị về tinh thần của con người như: trí tuệ, phẩm giá, nhân cách, tâm hồn… Giá trị nhân văn được xem như là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại.
Hiểu như thế, ta nhận thấy giá trị nhân văn của cảnh VII của vở kịch được khắc họa rõ nét qua nhân vật Trương Ba. Trương Ba là hiện thân của một con người tốt bụng, sống thanh tao và đặc biệt có biệt tài là chơi cờ rất giỏi. Ông là người thường chơi cờ với Đế Thích và hai người trở thành bạn của nhau. Tuy nhiên, do thiếu tinh thần trách nhiệm, tắc trách trong công việc của mình, các quan nhà trời đã gạch tên Trương Ba ở hạ giới khiến ông Trương Ba bị chết oan. Để sửa sai, Đế Thích cũng là một quan nhà trời đã cho hồn Trương Ba sống lại bằng cách nhập vào xác anh hàng thịt mới chết được một ngày. Từ đây, xung đột mâu thuẫn ở trong nhân vật hồn Trương Ba nảy sinh một cách gay gắt. Nhưng chính mâu thuẫn, sự đấu tranh ấy lại làm ngời sáng giá trị nhân văn của tác phẩm.
Hình ảnh một ông Trương Ba ngồi một mình ôm đầu hồi lâu đã cho chúng ta sự chán nản, tuyệt vọng trong tâm hồn. Hồn Trương Ba cảm thấy nỗi đau đớn của chính mình khi con người thật của mình đã bị đánh mất. Về hành động, Trương Ba không còn thường hay đánh cờ nữa, trí tuệ không còn được minh mẫn, sáng suốt. Là một người làm vườn, cây cối vốn là một thứ mà trước đây ông hết sức yêu quý và nâng niu, nay ông còn phá hoại cả chúng trên thân xác xù xì, thô kệch và nặng nề của anh hàng thịt : “ông làm gãy tiệt cái chồi non… chân ông giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong vườn, còn “làm hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”, “lãm gãy cả nam rách giấy” thậm chí “Trương Ba tát người con trai toét máu mồm, máu mũi”. Về cách sống, dường như tính cách Trương Ba thay đổi hẳn, không còn hiền hậu, vui vẻ, tốt bụng với những người trong gia đình và cả với mọi người xung quanh. Ông trở nên cộc cằn, thô lỗ, lại còn bị thân xác lấn át khi ham muốn vợ anh hàng thịt, đứng cạnh vợ anh hàng thịt, ông cảm thấy “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực”. Như vậy từ hành động tới cách sống của Hồn Trương Ba hoàn toàn biến mất, tha hóa chính là nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba. Bởi vì ông hiểu rằng cái tôi của mình trước đây, của một người làm vườn vốn là biểu tượng của cái đẹp song giờ đây, con người ấy lại hòa vào xác anh hàng thịt lại là biểu tượng của sự thô lỗ, cộc cằn, hung bạo, ham dục vọng thì thử hỏi làm sao mà không tha hóa, biến chất sao được. Giá trị nhân văn của tác phẩm lại nằm ở chỗ nhà viết kịch không để Hồn Trương Ba trượt dài trên sự tha hóa, biến chất của thân xác vốn không thuộc về mình, không phải là của mình. Một Trương Ba bị gia đình nghi ngờ, cảm thấy xa lạ, xa lánh nên nhân vật nhận thức rõ điều ấy và không muốn sống một cuộc sống lay lắt, sống dở, chết dở. Hồn Trương Ba quyết tìm gặp Đế Thích để nói lên khát vọng sống đích thực của mình là đòi lại quyền làm người, quyền sống thích đáng của con người. Trong cuộc nói chuyện, Hồn Trương Ba đã lên tiếng phê phán thói ích kỉ của Đế Thích : “ Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” và bày tỏ ước vọng của mình là muốn được chết vì chỉ có cái chết mới trả lại con người đích thực của Hồn Trương Ba, mới có thể tìm lại một Trương Ba tốt đẹp trong mắt mọi người xung quanh như xưa. Đối với Trương Ba, cái chết là một sự giải thoát thể hiện tinh thần phản kháng, đấu tranh đòi lại quyền làm người, đòi lại một người yêu thiên nhiên, yêu gia đình, yêu mọi người. Với khát vọng “ Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” thì đó lại là một cái chết đẹp. Tiếng nói ấy là một tiếng nói hết sức chính đáng, sống đúng với tư cách của một con người là một phẩm chất đẹp. Hồn Trương Ba quyết liệt tìm đến cái chết : “Tôi không nhập vào hình thù của ai nữa. Tôi đã chết rồi hãy để tôi chết hẳn”. Và ông còn quả quyết khi đưa ra lời đe dọa với Đế Thích “ Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông, hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất…”. Những lời nói phản kháng quyết liệt của Hồn Trương Ba khi đối diện với Đế Thích càng thấy rõ sức sống tiềm tàng trong con người Hồn Trương Ba thật mãnh liệt để tìm lại chính mình, đòi lại quyền làm người thích đáng của mình khi đã bị các quan nhà trời tước đoạt là phẩm chất tốt đẹp ở nhân vật này.
Một phẩm chất tốt đẹp nửa của Hồn Trương Ba cũng được bộc lộ ở ông đó là tình yêu thương con người. Khi Đế Thích vẫn muốn níu kéo sự sống của Hồn Trương Ba bằng cách đưa ra lời gợi ý, lời khẩn cầu sống trên thân xác của cu Tị hàng xóm trong cơn thập tử nhất sinh, Hồn Trương Ba đã không đồng ý và cùng lúc ấy ông đã xin trả lại sự sống cho anh hàng thịt và cu Tị. Dù Hồn Trương Ba nhận thấy thân xác của anh hàng thịt đã từng cười cợt, ngạo mạn, xem thường, miệt thị Hồn Trương Ba. Nếu không có hắn, Hồn Trương Ba có lẽ sẽ không bị rơi vào tình trạng đau đớn, day dứt, giày vò. Nhưng nguyện vọng của Hồn Trương Ba vẫn xin cho anh hàng thịt được sống, được trở về với gia đình, vợ con đã thể hiện một tấm lòng bao dung, nhân hậu, yêu thương con người của Hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba đã lấy ân báo oán, xóa bỏ thù hận trước kia bởi ông hiểu rõ nỗi đau của người vợ khi mất chồng và nỗi đau của người mẹ khi mất con từ đó yêu cầu tha thiết Đế Thích trả lại sự sống cho anh hàng thịt và cu Tị là một phẩm chất đáng quý.
Để khắc họa lên bản chất tốt đẹp trong sâu thẳm con người của Hồn Trương Ba khiến cho vở kịch mang đậm giá trị nhân văn, Lưu Quang Vũ đã xây dựng được tình huống đầy kịch tính, lời thoại của nhân vật chân thật, sinh động, lôi cuốn, đi sâu vào nội tâm nhân vật với sự đấu tranh mâu thuẫn phức tạp, giằng xé. Kịch bản đã nêu lên được thông điệp: Phải tôn trọng quyền làm người, quyền sống của con người và không có sự áp đặt tùy tiện làm cho con người tha hóa, đánh mất chính mình cũng là ý nghĩa nhân văn của vở kịch.
Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 2
Hồn Trương Ba,da hàng thịt là một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc đó-thời điểm những năm tám mươi của thế kỉ XX. Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lại một tích truyện dân gian cũ để đan cài vào đó những suy nghĩ,quan niệm,triết lí nhân văn mới mẻ và sâu sắc.
Câu chuyện bắt đầu từ khi cuộc sống của Trương Ba bắt đầu tái sinh dưới thân xác anh hàng thịt. Với truyện cổ tích, đó là một kết thúc có hậu và Trương Ba tiếp tục hạnh phúc với hình hài và thân xác mới. Tuy vậy, dưới con mắt của Lưu Quang Vũ,hiện thực cuộc đời được tái hiện theo đúng cách mà nó tồn tại. Vì thế mới nảy sinh một bi kịch mới, đó là bi kịch của một tâm hồn thanh cao,trong sáng lại phải sống chật chội trong thân xác của một anh chàng thịt phàm phu tục tử,thô lỗ,bản năng. Tuy vậy, sau ba tháng trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, với những lí lẽ đầy cám dỗ của thân xác,tâm hồn thanh cao của Trương Ba cũng có lúc bị tha hóa,phải làm những điều trái với tư tưởng, đạo lí của mình để thỏa mãn thân xác. Đó chính là bi kịch nội tại của nhân vật.
Sống trong xác anh hàng thịt, Trương Ba nhận thấy mình ngày càng bị tha hóa và đau khổ hơn là hồn Trương Ba không thể giải quyết được mâu thuẫn đó. Bi kịch được đào sâu,tạo xung đột qua các đoạn đối thoại.
Đầu tiên là cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác. Xác-bằng những lí lẽ đầy cám dỗ và những chứng cứ xác thực đã làm cho hồn thấy rằng sự tồn tại của nó cũng có cái thú vị. Đó là cảm giác khát thèm xác thịt, cảm giác khát thèm miếng ăn, sự đắc thắng trước bạo lực. Xác anh hàng thịt cũng sắc sảo không kém khi chỉ ra: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống phải vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập:” Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch,thẳng thắn! ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo; Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết,không có tư tưởng,không có cảm xúc…!
Bi kịch ấy vẫn chưa dừng lại. Tuy nhiên, qua lí lẽ của anh chàng hàng thịt, tác giả cũng hàm ý rằng, thể xác cũng có tiếng nói riêng. Đó là tiếng nói của bản năng, của đam mê, dục vọng đời thường. Vì thế, con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi xác vật chất đời thường. Đó cũng là sự mâu thuẫn giữa khát vọng và bản năng con người.
Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba đã cảm thấy không thể chịu nổi. Và hồn đã quyết không thể khuất phục xác được nữa. Hồn Trương Ba đã phản kháng quyết liệt:” Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!. Đây là lời đối thoại có tính chất quyết định dẫn đến hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
Qua bi kịch của hồn Trương Ba, nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến những thông điệp đến người đọc. Đó là con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
Màn kết, Trương Ba trở lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch, hóa thân vào các sự vật thân thương và tồn tại vĩnh cửu bên người thân. Cuộc sống trở lại quy luật tuần hoàn của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan, đồng thời gửi đến cho người đọc thông điệp và sự chiến thắng của cái Thiện cái Đẹp và sự sống đích thực.
Từ tích truyện cổ dân gian, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lí sống. Tính đa tầng, đa nghĩa, đã thanh trong vở kịch này là một sáng tạo mới của Lưu Quang Vũ. Chính sự đa hiệu ấy đã làm nên sức hấp dẫn và nguồn sống dạt dào cho vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt!
Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 3
Lưu Quang Vũ là người có tài về nhiều mặt như: viết văn, làm thơ, vẽ tranh…nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt nam. Những vở kịch của ông đã làm xôn xao dư luận và được đón nhận nồng nhiệt của khán giả. Phần lớn các vở kịch của ông đều được các đoàn nghệ thuật dàn dựng, trong đó vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt là đặc sắc nhất. Lưu Quang Vũ đã có rất nhiều sáng tạo. Ông đã đổ rượu mới vào bình cũ để kể lại chuyện hài xưa như một bi kịch triết lí thời nay. Qua vở kịch Lưu Quang Vũ đã gửi gắm rất nhiều suy nghĩ và quan niệm sống của mình đến với khán giả.
Nhan đề truyện thể hiện một quan niệm: Giữa hồn và xác phải có một sự tương hợp hài hòa, thế nhưng ở đây có sự khập khiễng không thể hòa hợp. Đặc biệt là hồn của một người thanh cao, trong sáng, trung thực lại ngụ trong xác của một kẻ tầm thường, phàm tục, đầy bản năng, thô lỗ. Bi kịch này sinh từ đó. Như vậy tên gọi của vở kịch đã thâu tóm được những mâu thuẫn xung đột bên trong của một con người. Điều nảy sinh là linh hồn là hồn trong sạch đang dần dần bị tha hóa. Từ chỗ thanh cao đến chỗ có những ham muốn tầm thường. Nhan đề đã thâu tóm những mâu thuẫn xác định ngay trong một con người. Đây là mâu thuẫn nội tại.
Bi kịch của Trương Ba: ông đã chết vô cớ vì sự thiếu trách nhiệm của tiên thánh. Tiên thánh sửa sai thì lại càng tệ hại hơn. Bi kịch xảy ra từ khi Trương Ba được sống lại. Như vậy vấn đề không chỉ được sống mà còn là phải sống như thế nào. Sống trong cái xác của anh hàng thịt, Trương Ba thấy mình bị tha hóa: hồn trong sạch ngay thẳng đang bị cái thể xác thô lỗ, ranh mãnh, ve vãn, chế nhạo, cám dỗ. Có lúc hôn phải thỏa hiệp với những đòi hỏi bản năng của xác. Bây giờ không còn thích đánh cờ – một thú vui trí tuệ, thanh cao. Những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn vô hồn. Không còn là người có bàn tay khéo léo nữa mà là một kẻ vụng về. Bên trong một đường, bên ngoài một nẻo. Ý thức được điều đó nên hồn càng thêm đau khổ. Đây là sự đau khổ vì không làm chủ được bản thân. Đây cũng là nỗi đau khổ của con người khi phải sống trong hoàn cảnh không phù hợp với mong ước của mình, không phải là chính mình.
Bi kịch của Trương Ba không chỉ là bi kịch của cá nhân mà còn là bi kịch gia đình. Quay lại với thể xác, hồn Trương Ba phải đối diện với một xung đột khác đó là bi kịch không được thừa nhận. Người vợ hiền thục rất đau khổ, tìm cách tránh mặt và định bỏ đi. Con trai thì hư hỏng, cháu nội thì tỏ thái độ thù ghét và đuổi ông đi. Đứa con dâu là người cảm thông với ông nhất, tiếc nuối một người cha chồng trước kia thì lại vướng mắc với một loại câu hỏi rất khó lí giải: “…làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”.Trương Ba đã rơi vào cái khổ của việc không được chia sẻ và thấu hiểu. Cháu nội thù ghét không nhận và đuổi ông đi, dù ông có thanh minh. Ông đã gây ra những xáo trộn, bất an trong gia đình, gia đình lại khổ lây vì sự nhũng nhiễu của lí tưởng.
Như vậy, Trương Ba đã rơi vào tình thế cô đơn ngay tại nhà mình. Trương Ba ý thức nỗi khổ này của vợ con lớn hơn cả nỗi khổ khi chôn ông xuống đất. Ông đã tự ý thức được tất cả và cảm thấy mình có lỗi với gia đình. Điều đó cho ta thấy Trương Ba là một con người rất vị tha.
Bi kịch của Trương Ba là ở chỗ mình không phải là mình. Khổ vì bị sự trói buộc có tính định mệnh của phần xác đối với phần hồn. Đây là nỗi đau khổ tột cùng của Trương Ba. Để thể hiện điều này, Lưu Quang Vũ đã tạo ra một cuộc đấu trí đầy trí tuệ giữa linh hồn và thể xác. Tiếng nói của xác là tiếng nói của bản năng. Tiếng nói của Trương Ba là tiếng nói của con người thanh cao, trong sạch, tự ý thức. Đó là cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai mặt tồn tại của con người, thể hiện khát vọng hướng thiện và tầm quan trọng cảu việc tự ý thức về bản thân và vượt lên chính mình.
Anh hàng thịt cũng không kém phần khôn ngoan, lí lẽ cũng có phần đúng đắn: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác của họ nỗi khổ sở nhếch nhác…”. Vì thế mâu thuẫn cũng khó có thể giải quyết nhanh chóng. Qua lí lẽ của anh hàng thịt tác giả cũng muốn nói lên một điều: Con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi vật chất đời thường, cũng như những nhu cầu chính đáng rất con người. Mặt khác tác giả cũng muốn nói lên những người vượt lên hoàn cảnh đã gặp không ít trở lực có lúc làm cho họ nản lòng. Điều đó thể hiện qua những câu thoại có vẻ đuối lí của Trương Ba. Rồi hồn Trương Ba phải thỏa hiệp và nhập vào xác anh hàng thịt, đuối lí bởi những lí lẽ vừa khó chịu vừa chứa đựng một phần chân lí. Màn đối thoại vừa có tính chất hài kịch lại vừa có tính bi kịch. Màn đối thoại vừa toát lên giọng điệu nghiêm trang lại vừa có ý mỉa mai hài hước. Đó là một sự kết hợp giữa hài kịch và bi kịch của người nghệ sĩ tài ba. Bi kịch này có sự mâu thuẫn giữa khát vọng và khả năng.
Hồn Trương Ba ý thức được nghịch cảnh mình nên đau đớn day dứt cùng với sự tác động từ bên ngoài: lí trưởng, gia đình nên Trương Ba phải gặp Đế Thích để giải quyết vấn đề này. Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích cũng rắt đặc sắc. Ngôn ngữ của Đế Thích là ngôn ngữ dụ dỗ thuyết phục: lí lẽ không ngoan có vẻ có lí, nâng cao giá trị của Trương Ba, bôi bác sự giả dối có trên thiên đình. Tiên thánh cũng không được sống theo những gì mình nghĩ ở bên trong, đến Ngọc Hoàng cũng phải ép mình cho xứng danh Ngọc Hoàng. Trên trời, dưới đất người ta đều thế cả. Đế Thích sửa sai lại càng thêm sai. Trương Ba đã bác bỏ một cách cương quyết: “Thần có thể chấp nhận một cuộc sống như thế chứ con người thì không” và khăng khăng đòi chết, không chịu nhập vào cái xác của ai nữa. Bi kịch của ông bắt đầu từ khi ông được sống lại trong cái xác anh hàng thịt. Như vậy, là con người ai cũng muốn là chính mình mà không muốn sống tạm bợ, chắp vá. Trương Ba đã ý thức được vấn đề là sống như thế nào chứ không phải chỉ được sống là đủ. Trương Ba đã dũng cảm chấp nhận cái chết để bảo vệ chân lí, bảo vệ nhân cách, bảo vệ các giá trị nhân sinh và dù có chết cũng là cái chết bất tử. Dù là nghịch lí nhưng đó là con đường phục hưng những giá trị nhân văn. Đó là cuộc thắng lợi của cuộc tranh chấp muôn thuở giữa cái thánh thiện và cái phàm tục. Trương Ba đã chiến thắng được mình và còn chủ động phê phán khuyên bảo Đế Thích. Đó là chuyện phi thường, một ông tiên phải đuối lí trước con người. Cuối cùng phải thốt lên một câu như vỡ lẽ ra một điều mới: “con người dưới hạ giới các ông thật là kì lạ”. Hóa ra các lực lượng siêu nhiên, thần thánh tuy có thể quyết định được việc sống chết của con người nhưng không thể can thiệp vào sự tự do của con người. Lưu Quang Vũ đã thể hiện niềm tin sâu sắc vào con người vào khả năng vươn lên mọi thực tế nghiệt ngã. Thật xúc động khi hồn Trương Ba xuất hiện giữa màu xanh lá với lời nói thật thiết tha. Cái chết của Trương Ba là cái chết bất tử, tâm hồn của ông vẫn sống mãi giữa màu xanh cây vườn. Bi kịch của Trương Ba là một bi kịch lạc quan.
Qua bi kịch của Trương Ba nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến người đọc những thông điệp: Con người cần phải sống hài hòa giữa hai mặt vật chất và tinh thần. Không nên kì thị những đòi hỏi vật chất của con người, cần tôn trọng quyền tự do cá nhân, giúp mỗi người phải được là mình, sống đúng với chính mình. Và phải sửa chữa những sai lầm để xây dựng một tương lai tốt đẹp.
Phân tích bài Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Mẫu 4
Nhắc đến Lưu Quang Vũ là nhắc đến một nhà soạn kịch tài hoa, một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu cho văn học hiện đại Việt Nam. Tài năng bao trùm trên các lĩnh vực văn chương nghệ thuật, và trong mỗi lĩnh vực, Lưu Quang Vũ lại để lại những dấu ấn đặc biệt, để lại những thành tựu trải dài suốt hàng thế kỉ.
Trong đó, Lưu Quang Vũ đặc biệt được ghi nhận ở mảng viết kịch và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được xem là một trong những vở kịch thành công nhất của Vũ. Chính vì thế mà nhà phê bình Ngô Thảo đã từng nói: “Bóng rợp tài năng của Lưu Quang Vũ đã trùm lên che mát cả một vùng sân khấu rộng lớn theo chiều dài đất nước trong một thập niên”.
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch viết về cuộc xung đột căng thẳng giữa Hồn và Xác mà Lưu Quang Vũ đã mượn cốt truyện dân gian để xây dựng nên. Trương Ba là một người hiền lành, chăm chỉ, có học thức lại giỏi đánh cờ nhưng lại chết một cách vô lí. Cái chết của Trương Ba chính do bởi sự vô tâm, tắc trách nơi Nam Tào. Sau đó, để sửa sai, Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại là nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết.
Nhưng không ngờ sự sửa chữa ấy lại dẫn tới một sai lầm trầm trọng hơn, Trương Ba rơi vào hẳn đời bi kịch khi phải sống trong xác hàng thịt – một con người hoàn toàn đối lập với mình. Sau cùng, Trương Ba đã lựa chọn cái chết, trả lại thân xác vay mượn cho Hàng Thịt bởi vì ông muốn “tôi muốn được là tôi của toàn vẹn” bởi “sống thế này, còn khổ hơn là cái chết”.
Và từ đó, vĩnh viễn “không còn cái vật quái gở mang tên “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nữa”. Qua đó, vở kịch đã mang đến một thông điệp to lớn: được sống làm người là quý giá thật, nhưng càng quý giá hơn khi được sống là chính mình, theo đuổi những giá trị mình mong muốn, sống một cách tự nhiên với sự hài hòa giữa tâm hồn và thể xác.
Với cốt truyện như trên, trích kịch xoay cuộc đối thoại nảy lửa giữa hồn và xác. Nguyên nhân xuất phát từ việc Trương Ba phải chịu sự lấn át của thể xác thô lỗ, chiều theo những nhu cầu tầm thường, dung tục mà khiến tâm hồn thanh cao bị nhiễm độc, tha hóa. Hàng thịt bây giờ là cái bình để chứa đựng linh hồn Trương Ba, hàng thịt đòi hỏi những nhu cầu ăn uống rượu thịt, tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi…và cả đời sống vợ chồng mà Trương Ba cho là thô phàm, thấp kém.
Trong khi Trương Ba càng cố gắng chối bỏ, đề cao sự nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn thì hàng thịt lại càng khinh khi, phỉ nhổ: “Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!” Qua đó, Lưu Quang Vũ đã gửi đến cho người đọc những triết lí nhân sinh quý giá hai tấn bi kịch của cuộc đời Trương Ba.
Bi kịch thứ nhất của Trương Ba là bi kịch sống, sống gửi, không được là chính mình. Nghịch cảnh trớ trêu, sự hoán đổi bất ngờ đã xáo trộn hiện thực. Trích kịch mở đầu với những lời kêu gào thống thiết: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!” Trương Ba đang độc thoại trước cảnh bế tắc. u uẩn không lối thoát của hiện tại. Thân xác kềnh càng, bản tính cục cằn thô lỗ của hàng thịt đang dần dần lấn át đi tâm hồn nhân hậu, thanh cao của chính ông.
Đau khổ, quẫn bách, dày vò không ngờ lại trở thành cuộc đời của Trương Ba. Sự hoán đổi quá chênh lệch, linh hồn thanh cao gửi vào xác thân phàm tục đã khiến cho ông muốn bứt mình ra khỏi hiện tại dù chỉ là trong khoảnh khắc: “Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó được tách khỏi cái xác này, dù chỉ là một lát!”
Trong chán nản tuyệt vọng, sự khát khao tách bạch trở nên tha thiết hơn bao giờ hết, tiếng kêu gào thống thiết kia chính là lời cầu cứu của một linh hồn khát khao được nguyên vẹn là mình. Và cũng trong giây phút đó, Hồn và Xác đã được tách ra, cuộc hội thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt được bắt đầu.
Ta thấy trong cuộc đối thoại đặc biệt đó, Hồn Trương Ba đã bị nhạo báng, thách thức và đôi lần đuối lí trước lời nói hùng hồn của Xác hàng thịt. Lời nói của Hồn Trương Ba vô cùng ít ỏi và tất cả đều xoay quanh việc bảo vệ sự trong sạch của chính mình, đề cao tâm hồn cao thượng, lối sống nhân hậu, thanh cao và lên án xác thân hàng thịt đã làm ông dơ bẩn, tha hóa. Xác trước những buộc tội đó không hề đuối lí mà ngược lại, còn ung dung, ngạo mạn thách thức linh hồn.
Trước lời khinh miệt thân xác vô hồn, đui mù “mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…”, hàng thịt đã nghiễm nhiên đáp lại: “Chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy!” Ta thấy, mỗi lời hàng thịt nói ra đều buộc Trương Ba phải thừa nhận có sự tồn tại của thể xác, hơn nữa, ông đang bị thể xác mà mình khinh khi, xem thường kia trói buộc.
Hồn im lặng và đau đớn thừa nhận sự thắng thế của Xác, nhiều lần phải bất lực đáp lại: “Im đi”, “Ta… ta… đã bảo mày im đi!”, “Ta không muốn nghe mày nữa!”,… Trong suốt cuộc đối thoại, Xác hàng thịt lần lượt kể lại những hành động, những việc làm, những thói quen nhuốm màu phàm tục như “Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại…”, “ông có nhớ hôm ông tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi không?” để cuối cùng khẳng định một điều chắc nịnh với Hồn Trương Ba: “Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục!”.
Bên cạnh đó, Xác hàng thịt còn lần lượt kể lể về những lí lẽ vô cùng thuyết phục như “những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”, kể về những “trò chơi tâm hồn” mà mình đã nhân nhượng với Trương Ba. Cuộc đối thoại đến hồi kết, hồn Trương Ba cam cảnh thua cuộc và phải quay về với xác hàng thịt.
Qua tấn bi kịch sống nhờ sống gửi này, chúng ta thấy hình tượng Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt chính là ẩn dụ cho hai lối sống đối lập, một bên đại diện cho sự thanh cao, nhân hậu, khát vọng sống cao khiết, một bên là sự tầm thường, dung tục. Đó đồng thời cũng là sự đấu tranh, đối thoại gay gắt trong một con người. Khi con người sống trong thể xác tầm thường dung tục thì ắt sẽ bị nó ngự trị. Ngược lại, nếu chỉ một mực chăm chút linh hồn mà xem thường thể xác thì thể xác cũng nhếch nhác, tầm thường.
Bi kịch thứ hai của Trương Ba là bi kịch bị người thân cự tuyệt. Có thể nói, đây mới là tấn bi kịch đau đớn nhất, sâu sắc nhất của Trương Ba. Ông tuyệt vọng, khổ đau không chỉ bởi sự thay đổi ngỡ ngàng đến không thể nhận ra của chính mình mà còn bởi sự xa lánh, rời bỏ của người thân. Khoảng cách gia đình, những vết rạn nứt đã mơ hồ xuất hiện.
Từng nhớ, trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam, từng có một Chí Phèo bị người thân bỏ rơi từ lúc nhỏ, bị Thị Nở ngoe ngoẩy cự tuyệt trên con đường hoàn lương để rồi đi vào một hướng giải thoát mang tính chất đánh đổi: đó là mạng sống, là cái chết. Hoàn cảnh Trương Ba cũng tương tự khi vợ, khi cháu và khi cả con dâu lần lượt rời xa ông. Làm sao Trương Ba có thể thanh minh cho hoàn cảnh hiện tại của chính mình? Làm sao ông có thể giải quyết sự mâu thuẫn giữa hồn và xác đang ngự trị?
Tình thân bị đặt vào giữa bi kịch nghiệt ngã, càng đẩy Trương Ba rơi sâu hơn vào bế tắc của chính mình. Người vợ mà ông hết mực yêu thương cũng không hiểu được ông: “Ông bây giờ còn biết đến ai nữa!”, đòi bỏ ông ra đi “để ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt”, “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”… Mỗi lời nói ra của người vợ như một vết cắt, cắt sâu vào nỗi đau của Trương Ba. Ngay cả đứa cháu ông – Gái cũng đã lên tiếng khước từ, phủ nhận “Tôi không phải là cháu của ông!”
Chính lời nói của đứa trẻ ngây thơ, vô tội đã cáo buộc đanh thép “bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫn lên nát cả cây sâm quý mới ươm”, “ông làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng cả cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”…Nó xua đuổi ông như đuổi một tên hung thần, một tên ác quỷ, nó gọi ông bằng những danh xưng xấu xa, bằng lão đồ tể.
Cuối cùng, đến cả chị con dâu – người mà ông tin tưởng nhất cũng đã tỏ ra nghi ngờ: “mỗi ngày con thấy thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Chị vẫn tự nhủ mình phải kính trọng, phải yêu thương, phải cảm thông cho người bố chồng bất hạnh nhưng hiện thực giờ đây là cửa nhà tan hoang, là nỗi đau khổ của từng người từng người một “nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?”
Bây giờ đây, Trương Ba hoàn toàn tuyệt vọng, ông không còn chút niềm tin nào để bấu víu, không còn thiết tha gì một mạng sống đã làm khổ chính mình, hành hạ người thân. Bi kịch nhường ấy là quá đủ. Nỗi đau này phải tiếp tục cho đến bao giờ, Trương Ba “mặt lặng ngắt như tảng đá”, từ chối bỏ, nghi ngờ, chịu ép vế nay đã phải hoàn toàn thừa nhận sự thắng thế của thân xác. Bi kịch bị người thân cự tuyệt đã giúp ông có những suy nghĩ dứt khoát, những hành động quyết liệt nhất để tìm ra con đường tự cứu lấy mình. Cuối cùng, ông đã xin với Đế Thích cái chết bởi “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”.
Sở dĩ Trương Ba từ chối cơ hội cuối cùng mà Đế Thích ban cho, đó là nhập hồn vào xác Cu Tị vừa mới chết là vì ông không muốn một lần nào nữa xảy ra bi kịch oái oăm tương tự. Làm có thể sống một cách bình thường, làm sao có thể dung hòa sự khi bên ngoài và bên trong hoàn toàn trái ngược?
Tâm hồn của Trương Ba là một tâm hồn hoàn toàn khác so với thân xác đang trú ngụ kia. Sẽ chẳng có một lối thoát, một cứu cánh nào vẹn toàn cả “trẻ con phải ra trẻ con, người lớn phải ra người lớn”. Đế Thích quan niệm cuộc sống khác ông, sống chỉ đơn giản là không chết, chẳng cần phải vẹn toàn, phải ý nghĩa, phải như mong muốn gì cả “tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong”, “dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông”.
Cái chết của Trương Ba chính là cuộc hồi sinh ngắn ngủi trong lòng những người thân, khi người chồng, người ông, người cha kính yêu, hiền lành khi xưa đã quay trở về. Từ bỏ cuộc sống giả tạo, mệt mỏi, Hồn Trương Ba quay về với nếp nhà hiền hậu ban đầu, với cuộc sống của chính mình, với bậc cửa ở nhà, với ánh lửa, với cầu ao, với cơi trầu, con ao…
Trương Ba đã nói một câu hết sức bình thường giản dị nhưng lại vô cùng thấm thía cảm động: “Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”
Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có nhiều đặc điểm nghệ thuật nổi trội và đã gặt hái thành công rực rỡ ở những buổi công diễn sân khấu kịch. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã lồng ghép vào triết lí nhân sinh quý giá về cuộc sống, cách sống của mỗi con người. Đặc biệt, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, xúc động và gay cấn qua các màn độc thoại, đối thoại đã tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm.
Tóm lại, thông qua trích kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ đã khắc họa một cuộc đối thoại sinh động giữa Hồn và Xác để từ đó đi đến kết luận về một cuộc sống thực sự có ý nghĩa, một cuộc sống thể xác và tâm hồn để tìm sự sự dung hòa hợp lí. Và trong bất kì hoàn cảnh nào, con người phải biết đấu tranh vươn lên những giá trị chân thiện mỹ, biết tự hoàn thiện bản thân trên mọi phương diện chính là thông điệp nhân sinh quý giá mà vở kịch mang lại.