Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) (dàn ý + 15 mẫu)

✅ Văn mẫu Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) (dàn ý 15 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

Một người hà nội là một tác phẩm hay viết vế một người mang tính cách thanh lịch của người Hà Nội. Dưới đây là tổng hợp Văn mẫu Một người Hà Nội do Vanmau,com

Top 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Một người Hà Nội" của Nguyễn Khải -  Toplist.vn

Tóm tắt Một người Hà Nội

Nhân vật Khải cho biết cô Hiền là “chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi”. Cô sinh trưởng trong một gia đình ở Hà Nội giàu sang phú quý.

Từ chiến khu về tiếp quản thủ đô, anh cảm thấy cực kì khoan khoái được sống giữa phố phường đông vui. Anh bàn khoăn tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ? Họ đang tim cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, cả cách nói năng nữa. Một lần anh đến thăm cô chú, thằng em trai chạy ra mở cửa kêu ầm lên: “Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến!” ,thì cô cau mặt gắt: “Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa?”. Khi người chú nắm lấy tay anh và nói: “Tại sao chủ nhật đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi “, thì cô thở dài, quay người đi. Cô phàn nàn với người cháu là chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá… Trước đây, cô chú có hai người ở, một anh bếp và một chị vú. Sau ngày giải phóng cô cho anh bếp về quê làm ruộng, chỉ giữ lại chị vú. Quan hệ hai bên rất tình nghĩa thuỷ chung.

Trong lí lịch cán bộ, Khải không ghi tên cô Hiền vì họ thì xa, vả lại dính líu vào bà tư sản lại thêm phiền. Một hôm, Khải hỏi tại sao cô không phải học tập cải tạo, cô cười rất tươi, nói thản nhiên: “Tao có bộ mặt rất tư sản, một sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”, Nhiều bà bạn thắc mắc về chuyện cô trông như bà tư sản mà không bị học tập thì cô nhẹ nhàng trả lời: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Cô Hiền rất thức thời. Cô có ngôi nhà ở Hàng Bún cho thuê, năm 56, cô bán cho một người bạn ở kháng chiến về. Ông chồng muốn mua một máy in để kinh doanh, cô nhẹ nhàng hỏi lại, ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à? Tính vốn nhát, ông chồng rút lui ngay.

Cô Hiền có đầu óc rất thực tế, không có sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẩn. Mọi sự mọi việc, cô đều tính toán trước cả. Cô tuyên bố thẳng thừng với đứa cháu: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”. Gần ba chục tuổi, cô mới lấy chồng. Cô chỉ chọn một ông giáo cấp tiểu học hiền lành làm bạn trăm năm, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc.

Sau khi sinh đứa con gái út, đứa con thứ năm, cô nói với chồng là từ nay chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi. Cô dạy các con biết tự trọng, biết xấu hổ, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn. Cô chê Khải là bắt nạt vợ con nhiều quá. Theo cô, người vợ phải là nội tướng trong gia đình.

Năm 1965, Dũng đứa con trai đầu lòng của cồ tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mĩ. Khi đứa cháu hỏi, cô bảo: “Tao đau đớn mà bằng lòng… nó dám đi cũng là biết trọng”. Ba năm sau, đứa em kế của Dũng làm đơn xin tòng quân, đứa cháu lại hỏi, cô trả lời buồn bã: “Tao không khuyến khích, không ngăn cản, ngăn cán tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó “. Rồi cô chép miệng: “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm gì”.

Mười năm sau, tháng 12 năm 1975, Dũng từ chiến trưòrng miền Nam trở về. Gầy đen quá, râu ria cũng nhiều quá. Con trai khoác ba lô vào đến giữa nhà, cô Hiền còn hỏi anh muốn mua gì? Cô chú mở tiệc liên hoan ăn mừng. Khoảng mươi, mười lăm người đến dự, là bạn bè, những cựu công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh của đất kinh kì. Ngày thường, họ ăn mặc bình dị, nhưng hôm ấy họ thật sang trọng, lịch sự. Các ông thì mặc đồ bộ, thắt cà vạt; các bà thì áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển. Còn cô Hiền xuất hiện như diễn viên sân khâu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh. Trong bữa tiệc, Dũng cho biết trong số 660 thanh niên Hà Nội ra đi chuyến ấy, nay chỉ còn lại trên dưới bốn chục người. Anh nói về Tuất, người bạn đồng đội cùng trung đoàn, cùng cấp thượng uý đã hi sinh tại mặt trận Xuân Lộc trước ngày toàn thắng có mấy ngày; Dùng kể chuyên gặp mẹ Tuất, anh khóc, nước mắt đầm đìa, còn mẹ của Tuất cứ run lên bần bật…

Nhiều năm đã trôi qua, Khải vào sống ở thành phố Hồ Chí Minh thỉnh thoảng có việc phải ra Hà Nội đều ghé lại thăm cô Hiền. Ong chú đã mất, cỏ Hiền đã già yếu, ngoài bảy mươi, các em đã có gia đình riêng. Gần Tết, cỏ Hiền đang lau đánh cái bát thuỷ tiên. Cô Hiền vẫn là người của Hà Nội hôm nay. Hai cô cháu nói bao chuyện về Hà Nội. Khải tự hào về người cô giỏi quá, khiêm tốn và rộng lượng quá. Anh cảm thấy thật tiếc một người như cô phải chết đi, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ…

✅ Văn mẫu Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) (dàn ý 15 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐ 1

Dàn ý Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội – Văn mẫu Một người Hà Nội 

A. Mở bài: Khái quát:

– Vị trí: nhân vật trung tâm.

– Vai trò: kết tinh cho giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm

– Mô tả khái quát về nhân vật: Nhân vật cô Hiền được miêu tả ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau của dân tộc. Trải qua thời gian nhiều biến động, phẩm chất và nét đẹp của một người Hà Nội vẫn tỏa sáng, như nhất, không hề phôi pha trong con người này.

B. Thân bài:

* Phân tích:

– Nếp sống thanh lịch dù thời cuộc có đầy biến động.

+ Cái ăn

+ Cái ở

+ Cái mặc

– Thông minh, tỉnh táo và thức thời:

* Năm 1956, bán một trong hai ngôi nhà cho người kháng chiến ở.

+ “Chú tuy chưa già nhưng đã đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”

+ Ứng xử với chính sách cải tạo tư sản của nhà nước.

Chồng muốn mua máy in => ngăn cản vì nhận rõ việc làm này sẽ vi phạm chính sách.

Mở cửa hàng đồ lưu niệm để đảm bảo “đủ ăn” mà không bóc lột bất kì ai.

– Có đầu óc thực tế, sự trung thực, thẳng thắn:

+ Không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng, không có cái lãng mạn hay mơ mộng viển vông.

+ Đã tính là làm, đã làm là không để ý đến lời đàm tiếu của thiên hạ => bản lĩnh, có lập trường.

+ Đi lấy chồng: dù giao du rộng nhưng chọn làm vợ một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành, chăm chỉ => cả Hà Nội “kinh ngạc”.

+ Tính toán cả chuyện sinh đẻ sao cho hợp lí, đảm bảo tương lai con cái.

+ Khi cháu là cán bộ cách mạng về chơi, chồng và con gọi là “đồng chí”, bà nhắc nhở phải gọi là “anh Khải” => biết nhìn nhận mọi việc theo đúng bản chất, thức thời nhưng không xu thời.

+ Khi cháu – người cách mạng hỏi về cuộc sống mới khi giải phóng, bà nhận xét thẳng thắn, sắc sảo, không giấu giếm

– Trân trọng, nâng niu, gìn giữ truyền thống văn hoá người Hà Nội:

+ Dặn dò bọn trẻ: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”

+ Coi việc giữ gìn nếp sống là một cách “tự trọng, biết xấu hổ”.

=> Là hạt bụi vàng của Hà Nội: Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng => biểu tượng của vẻ đẹp tinh tế, sức sống bất diệt của văn hoá Hà Thành.

Lưu ý: em có thể chọn thêm dẫn chứng để chứng minh.

* Đánh giá:

– Nhân vật “một người Hà Nội” được soi chiếu ở nhiều thời điểm lịch sử. Mỗi thời điểm đầy biến thiên ấy như thứ nước rửa ảnh làm hiện hình nổi sắc những nét đẹp bất diệt: sự thanh lịch, sang trọng trong nếp sống, cách nói năng; trí thông minh, sự tỉnh táo, thức thời; đầu óc thực tế, trung thực, thẳng thắn…

– Đặt cô Hiền trong những biến động của lịch sử, nhà văn đã soi chiếu số phận của một dân tộc qua cuộc đời của một cá nhân => thể hiện:

+ Cái nhìn hiện thực mới mẻ

+ Quan niệm về con người, niềm tin vào sự bất tử của những nét đẹp văn hóa truyền thống.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: ngôn ngữ cá thể hóa (Lời nói của cô Hiền logic, rõ ràng thể hiện sự sắc sảo, thông minh, tự tin, am tường nhân thế)

– Liên hệ ngắn gọn với “chân dung người Hà Nội” hiện nay (ý mở rộng)

C. Kết bài:

– Đánh giá tài năng của tác giả và thành công của tác phẩm

Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội

Nguyễn Khải là nhà văn giỏi quan sát chuyện đời, chuyện người, say mê giảng giải, triết lí về mọi sự bằng một tư duy phân tích sắc sảo. Nét độc đáo ở những trang viết của ông là mối quan hệ giữa “chuyên người” với “chuyện mình”, giữa “chuyện đời” với “cái tôi” trải nghiệm chặt chẽ đến mức luôn có xu hướng làm thành một kết cấu trần thuật kép: vừa “phản ánh” vừa “biểu hiện”, vừa nhằm “tác động” vừa “tự nhận thức”, vừa xác định chân lí theo kinh nghiệm cá nhân vừa muốn bàn bạc, đối thoại với những kinh nghiệm khác. Chính cái tôi tác giá, một cái tôi có khá năng in đậm dấu ấn lên câu chuyện (rất thông minh khi phát hiện và lật xới vấn để, dễ dàng nắm bắt được trạng thái tinh thần thời đại phía sau những ứng xử thường ngày, kể chuyện mà cứ như đang suy nghĩ – luận bàn về câu chuyện với rất nhiều đúc kết khôn ngoan) đã giúp Nguyễn Khải khẳng định vị trí chắc chắn trong tâm trí những bạn đọc yêu thích thứ văn chương giàu chất trí tuệ mà vẫn tựa vững trên tấm lòng trìu mến, thân thiện đối với con người. Khi tự chia hành trình sáng tác của mình thành hai giai đoạn (trước năm 1978 và từ 1978 trở đi), nhà văn không chỉ muốn nói đến mối quan hệ giữa “con người” và “thời thế”, đến những sự điều chỉnh cần thiết và tất yếu trong thế giới quan của ông ở giai đoạn thứ hai, mà còn gián tiếp triết lí về cái hữu hạn của nghệ thuật trước cái vô hạn của đời sống. Từ đây ông sẽ lấy triết lí này làm nguyên tắc sáng tạo: khước từ cung cách độc thoại của kiểu nhà văn đứng cao hơn bạn đọc để làm một người đề xuất vấn đề, gợi mở đối thoại, chia sẻ cảm xúc và chiêm nghiệm riêng trên tinh thần tôn trọng bạn đọc, trao cho họ quyền phán xét chân lí. Nếu trước năm 1978, Nguyền Khải chủ yếu theo đuổi cảm hứng chính luận và tập trung vào các vấn đề chính trị – xã hội thì từ năm 1978 về sau, ông dành mối quan tâm chủ yếu cho con người, trước hết là con người cá nhân, có thân phận, danh phận, bổn phận cụ thể đang đan dệt nên cái dòng cháy sôi sục, ồn ào, đầy biến động của cõi nhân gian. Một người Hà Nội, được hoàn thành ngày 19 – 1 – 1990 (theo ghi chú cuối truyện) là một truyện ngắn nghiêm túc, một cuộc đối thoại cởi mở về con người: Phải chăng bản lĩnh cá nhân, lòng tự trọng của mỗi cá nhân là cốt lõi của nhân cách? Phải chăng sự sâu sắc, thâm trầm, lối sống sang trọng, lịch lãm, có vãn hoá làm nên vẻ đẹp của người Hà Nội?

Được viết trong bối cảnh xã hội Việt Nam trên con đường đổi mới đang biến chuyên mau lẹ, nhiều cuộc “đụng độ” gay gắt giữa hai hệ giá trị cũ – mới xảy ra khi cơ chế kinh tế thị trường phát huy ảnh hướng rộng khắp và quan hộ giao lưu đa chiều đem đến nhiều kinh nghiệm mới mẻ, làm mất giá nhiều kinh nghiệm cũ, Một người Hà Nội là nơi tác giả gửi gắm những điều mình chiêm ngẫm và trăn trở về khả năng bảo tồn những giá trị mà ông tin là tinh tuý nhất của người Việt: Văn hoá Thăng Long, Tràng An. Liệu mảnh đất ngàn năm văn hiến ấy trước cơn lốc kinh tế thị trường có đánh mất gương mặt tinh thần sang trọng, hào hoa được hun đúc suốt trường kì lịch sử? Ma Văn Kháng khi viết Mùa lá rụng trong vườn (1985) cũng đã ít nhiều chạm đến câu hỏi này. Cùng thời điểm đó, đạo diễn Trần Văn Thuỷ làm bộ phim tài liệu nghệ thuật Hà Nội trong mắt ai đã không giấu cái nhìn phê phán có tính cảnh báo đối với những biểu hiện phi ván hoá cúa thủ đô đang hàng ngày bày ra ngay trước mắt du khách (bộ phim đem lại những tiếp nhận đa chiều). Một người Hà Nội có thể xem như một tiếng nói đối thoại sắc sảo Nguyễn Khải góp vào mối quan tâm chung của những ai nặng lòng với vẻ đẹp kinh kì (ý hướng đối thoại rất rõ vì nhà văn đã đưa truyện này vào một tập truyện có tên Hà Nội trong mắt tôi, in năm 1995). Người đọc dễ dàng nhận ra Nguyễn Khải dành cho Hà Nội một tình yêu và niềm tự hào sâu sắc đến thế nào và ông cũng coi trọng truyện ngắn Một người Hà Nội thế nào. Với ông, Hà Nội là “đất kinh kì” (tên một truyện khác trong tập), là nơi hội tụ tinh hoa cả nước: “cái nước sông Hồng, cái gió sông Hồng nó lạ lắm, nó làm ra văn chương Bắc Hà, văn chương Hà Nội”. Mà đâu chỉ văn chương! Chọn một người phụ nữ như nhân vật bà Hiền làm một “lát cắt” nhỏ về Hà Nội, ông muốn kí thác tình yêu bền chặt và sự kì vọng đối với truyền thống văn hoá dân tộc vào những con người luôn luôn biết cách nuôi dưỡng “nếp nhà”. Chính nhờ họ mà nét đẹp riêng của kinh kì qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử vẫn nguyên cốt cách, không gì có thể làm phiêu tán, phôi pha. Tính thời sự của tác phẩm do vậy lại gắn với nhu cầu đối thoại về văn hoá Hà Nội. Người như bà Hiền có phải là hiện thân của cái văn hoá ấy không?

Bà Hiền – điểm tựa chính cho chủ đề tác phẩm, được khắc hoạ nổi bật ở cả hai mặt: tính cách và tư tưởng. Qua điểm nhìn của người kể chuyên xưng “tôi”, tính cách bà Hiền hé lộ dần, một tính cách “động” mà hoá ra ổn định từ đầu đến cuối. Tư duy nghiên cứu đã đảm bảo cho câu chuyên liên tục là những khám phá bất ngờ, “níu chân” bạn đọc. Từng bước hoàn thiện chân dung bà Hiền theo dòng chảy thời gian với bao đổi thay thời cuộc, mỗi lần gặp gỡ nhân vật là thêm một lần người kể chuyện ngỡ ngàng. Tác phẩm xâu chuỗi bốn tình huống nhận thức, cố ý tạo nên mạch truyện tưởng lan man, ngẫu hứng mà kì thực đan xen uyển chuyển, chặt chẽ, kết dính thành một hành trình nhận thức từ thấp đến cao (tình huống bà Hiền chọn chồng, tình huống bà bị “ngờ” là tư sản, tình huống các con bà tình nguyện đi chiến đấu và tình huống bà phải bày tỏ thái độ trước lối sống thủ đô thời kinh tế thị trường). Cảm quan lịch sử ở đây rất đậm nét. Mỗi tình huống tương ứng với một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, những phát hiện của người kể chuyện về bà Hiền là mạch phát triển tuần tự: từ hoài nghi đến nể phục, từ e ngại đến tin cậy, từ tò mò đến cảm động, trân trọng. Tình huống nhận thức trong Một người Hà Nội khác với trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ở chỗ: không gay cấn, éo le, người kể chuyện không “bừng ngộ” mà “tiệm ngộ” dần dần cùng độ dài thời gian suy tư, chứng nghiệm, giống như một mạch ngầm văn bản. Có thể xem bà Hiền như chứng nhân cho những biến thiên lịch sử kéo dài từ trước Cách mạng tháng Tám đến thời kì đất nước tưng bừng công cuộc đổi mới. Qua bao biến động dữ dội, Bà Hiền vẫn vững vàng một bản lĩnh sống, đầy trách nhiệm công dãn mà không khi nào đánh mất mình “một đời không để bị ai cám dỗ”. Bà luôn lấy lòng tự trọng làm nguyên tắc xử thế, lấy văn hoá làm thước đo giá trị sống: “là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống luỳ tiện, buông tuồng”. Bà là một “thể phách” và một “tinh anh” của Hà Nội, vượt lên mọi biến suy của thời gian, mọi nông nổi của thói thời thượng để người đọc được nhẹ nhõm mãi niềm tin “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” (ca dao).

Vẻ đẹp “người Hà Nội” trong bà Hiền thể hiện trước hết ở việc gìn giữ “nếp nhà”. Gốc gác Hà Nội cho bà một căn cốt vững vàng từ nền giáo dục gia đình. Cha mẹ bà đã là bằng chứng cho việc người ta có thể giàu có mà vẫn lương thiện, giàu có mà không “trọc phú”. Cô Hiền thuở trẻ được cha mẹ cho mở phòng tiếp khách văn chương (gọi là xa lông văn học). Với ai đó thì đây là cơ hội để lấy được tấm chồng danh giá hoặc chỉ đơn giản, có dịp phô diễn sự thức thời (kiểu bà Phó Đoan xây sân quần trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng chẳng hạn), nhưng với cô Hiền và gia đình cô, đấy là nhu cầu giao tiếp để mở mang tầm mắt, để hấp thụ thêm cái tao nhã cứa văn chương nghệ thuật. Thế nên việc cô Hiền chọn chồng đã khiến tất cả người quen biết bất ngờ. Họ bất ngờ vì họ tư duy theo thói thường. Cô Hiền đứng ngoài cái thói thường ấy. Có lẽ cô nhắm tới một cuộc hôn nhân đảm bảo duy trì truyền thống “giàu có lương thiện” của gia đình và cô phải đóng vai người “nội tướng” để giữ vững “nếp nhà”. Đấy là sự lựa chọn của bản lĩnh cá nhân và của tình yêu Hà Nội sâu xa trong máu thịt. Những năm Hà Nội bị tạm chiếm, gia đình cô không tản cư (điều này gây ra sự ngờ vực ở không ít người về lập trường yêu nước của cô) nhưng thực chất cô không tản cư chỉ vì “không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất nào khác”. Một tình yêu kiên định bắt nguồn từ một niềm tin vững chắc vào sự ngay thẳng (nhưng có lẽ cũng vì vậy mà cực đoan nghĩ rằng chỉ ở Hà Nội mới duy trì được lối sống đẹp?)

Đọc thêm  Văn mẫu lớp 12: Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong Rừng xà nu Dàn ý & 9 bài văn mẫu lớp 12

Khi Hà Nội được giải phóng, khi “văn hoá thời chiến”, “văn hoá bình dân” lên ngôi, bà Hiền càng có ý thức nuôi dưỡng dưới mái nhà mình nét thanh lịch vốn có, từ cách ăn, cách mặc đến cách xưng hô. Theo bà, đấy cũng là văn hoá, bà muốn các con bà nhận ra “văn – hoá – người” ngay từ những chuyện nhỏ nhặt, thường tình nhất: “Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ, còn sau này muốn sống ra sao là tuỳ”. Bà không uốn mình theo lối ứng xử dễ dãi của số đông. Cái sâu sắc ở người phụ nữ, người mẹ, người Hà Nội ấy không phải ai cũng nhận ra. Nhân vật “tôi” lúc đầu đã nghĩ bà “đích thị là tư sản” nên bảo vợ con “tránh xa” để khỏi liên luỵ, rồi sau đó lại cho bà là kẻ thủ cựu, cố chấp, không hợp thời. Có lẽ mãi sau này, khi gặp những kẻ không còn khả năng “biết xấu hổ”, không còn lòng tự trọng mà chỉ còn sự trăng tráo thô bỉ, “tôi” mới thật hiểu trí lự của bà Hiền. Có một người mẹ như thế, tất sẽ có những người con “không sống bám vào sự hi sinh của bạn bè”, tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mĩ. Trong bữa tiệc gia đinh mừng ngày Dũng trở về từ chiến trường miền Nam, người – con – trai – bà – Hiền đã nói rất ít về những chuyện vui, những chiến công:

“Anh nói rằng trong nửa năm nay, anh không ngớt nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu mươi người. Bây giờ còn lại khoảng trên dưới bốn chục” (Hà Nội của anh đã không tiếc máu xương cho Tổ quốc hoà bình, thống nhất). Rồi anh kể về tình yêu mẹ của người đồng đội tên là Tuất, về sự can đảm phi thường của mẹ Tuất lúc anh đến báo tin Tuất đã hi sinh. Niềm vui được sống trở về không làm chàng trai còn rất trẻ ấy quên chia sẻ nỗi đau của người khác. “Chất Hà Nội” từ thế hệ người mẹ như bà Hiền, như mẹ Tuất đang được chuyển giao thật tự nhiên sang thế hệ những người con như Dũng, Tuất. (Đối diện với họ, nhân vật tôi phải giật mình bởi những nhận xét ồn ào, vội vã: “tôi đã nói điều gì thất thố?”).

Để có thể gìn giữ nghiêm cẩn nề nếp gia phong, người phụ nữ đương nhiên phải đóng vai trò “nội tướng” (tục ngữ có câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”). Bà Hiền thực hiện tư tưởng nam nữ bình quyền theo cách riêng: dứt khoát mà vẫn thừa tinh tế. Bà chủ động chấm dứt sinh đẻ với nhận thức thật đúng đắn: sinh con nghĩa là phải nuôi dạy con nên người, phải chuẩn bị chu đáo cho mỗi đứa con có khả năng sống tự lập “khỏi phải sống bám vào anh chị” (lại vẫn lấy nguyên tắc tự trọng làm chuẩn). Bà chê trách người cháu: “Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng”. Bà điều hành gia đình bằng những phép tính khôn ngoan, nhìn xa trông rộng “và luôn tính đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô. Không có sự lãng mạn hay mơ mộng vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ”. Như vậy chồng và con bà không nể trọng sao được? Có một chi tiết nhỏ tưởng bình thường mà thật đắt giá: thấy cậu con trai xưng hô không hợp với quan hệ gia đình (gọi anh là đồng chí), bà “cau mặt gắt” nhưng khi ông chồng cũng phạm chính lỗi đó, bà chí “thở dài, quay người đi”. Một người vợ biết tôn trọng chồng là biết nhượng bộ, nhường nhịn đúng lúc. Nghiêm khắc, kĩ lưỡng uốn nắn con cái từng li từng tí, nhưng bà bao giờ cũng hiểu con và luôn biết dành cho chúng quyền tự quyết định. Bà đảm đang, tháo vát mà không ích kỉ lạnh lùng. Tình nghĩa thuỷ chung của vợ chồng chị vú em đối với gia đình bà nói lên điều đó.

Nhưng một người “nội tướng” mẫu mực chúng ta có thể gặp ở nhiều nơi. Cái làm nên tính cách riêng của bà Hiền, khiến bà – một phụ nữ bình thường trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam – trở nên cá biệt, phi thường chính là bản lĩnh cá nhân, sự lịch lãm và lối sống sang trọng. Dù có lúc bị ngờ vực, bị soi xét bằng cái nhìn định kiến, bao giờ bà Hiền cũng vẫn là mình – một cái tôi khôn ngoan, giàu tự trọng, biết người biết ta. Thuở trẻ trung, nhan sắc hơn người, bố mẹ lại giàu có, cô Hiền đã không buông mình cho thói hợm hĩnh, đua đòi ăn chơi hưởng lạc như vô số kẻ tầm thường khác. Sau này người phụ nữ ấy sẽ tạo lập tổ ấm của mình bằng chính bàn tay tài hoa, chăm chỉ và cái đầu giỏi tính toán, cho nên gia đình bà lúc nào cũng giữ được phong cách sống đàng hoàng, ấm áp. Bà “có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả” (giữa những cái nhìn kì thị với sự giàu sang cực đoan đến mức cháu cũng nghi ngại cô, thì phải có bản lĩnh lớn lắm mới có thể ung dung mà sống như bà Hiền). Không bao giờ xu thời, nhưng cũng không quay lưng với thời cuộc, bà tự giác điều chỉnh công việc làm ăn mỗi khi cơ chế thay đổi. Tỉnh táo và công bằng, bà phê phán sự lạc quan tự mãn thái quá của nhiều người trong những ngày đất nước mới độc lập: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ!” (có phải lại thêm một cái giật mình tự phản tính của tác giả?). Bà không tán thành quan điểm “không khuyến khích cá nhân làm giàu” của chế độ mới nhưng không phản kháng mà cố gắng thu xếp sao cho gia đinh mình vừa không vi phạm luật pháp vừa không đánh mất truyền thống riêng. Một câu nói nhẹ nhàng giải thích việc bà không bị “học tập cải tạo” cho thấy bà rất công tâm: “các bà không biết nhưng Nhà nước lại rất biết”. Con người ấy luôn độc lập trong nhìn nhận đánh giá và rất ít vướng vào định kiến.

Thông minh, thức thời, tháo vát,… đó là tính cách của bà Hiền trong cuộc sống đời thường. Tính cách ấy rất đáng để nể phục. Nhưng bản lĩnh ứng xử trước thời cuộc (luôn “là mình” mà không thiếu trách nhiệm với cộng đồng, tính toán khôn ngoan mà vẫn đằm thắm một tấm lòng đôn hậu) mới thực sự là những giá trị làm nên nhân cách của bà, làm nên văn hoá sống, làm nên cái đẹp. Khi hàng trăm thanh niên ưu tú của Hà Nội lên đường đánh đế quốc Mĩ, người con trai cả của bà Hiền tình nguyện nhập ngũ, bà không ngăn cản con, cũng không nhân đó mà khoe lòng yêu nước. Bà trả lời thẳng thắn “tao đau đớn mà bằng lòng”. Trong văn học thời chiến tranh của ta hình như chưa một bà mẹ nào phát biểu thế cả. Nguyễn Khải đã rất sâu sắc để cho nhân vật công khai đối thoại với những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa ái quốc. Người đọc nào yêu chuộng sự trung thực sẽ rất cảm động vì tin vào cuộc đấu tranh nội tâm – dù chỉ được hé mở qua một câu nói – chắc chắn nhiều giằng xé mà người mẹ – người công dân như bà Hiền phải trải qua. Bà mẹ nào có thể vui khi đứa con phải đi vào nơi hiểm nguy, nhưng bà hiểu con “nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Bà không che giấu niềm kiêu hãnh: “tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè”. Với việc ra đi của đứa con thứ hai, bà vẫn ứng xử trên nguyên tắc tự trọng và niềm kiêu hãnh như vậy vì theo bà, ngăn cản con là “bảo nó tìm đường sống để các bạn phải chết”, “đấy cũng là cách giết nó”. Bà đặt danh dự cao hơn sự sống, mất danh dự tức là chết về tinh thần, nhân phẩm.

Mang đậm cốt cách Hà Nội, trong sâu thẳm con người bà Hiền là cái tâm linh của Hà Nội. Tâm linh ấy được bồi đắp trên truyền thống của mảnh đất nghìn năm văn hiến. Khi con người tin rằng mình đang giữ gìn một giá trị, thì tự khắc nó tìm được khả năng đề kháng trước mọi biến suy và cám dỗ. Bà Hiền ý thức mình là người Hà Nội nên cái mà bà tha thiết bảo vệ và phát huy là cái chất Hà Nội. Bà không chỉ dạy dỗ con cái sống có văn hoá mà còn nỗ lực tạo dựng một môi trường văn hoá trong gia đình (mỗi tháng đều tổ chức một bữa ăn bạn bè làm sống dậy những nét sinh hoạt và giao tiếp sang trọng, đẹp đẽ như truyền thống kinh kì). Giữ nếp nhà là cách để giữ nếp người. Sau bao nhiêu biến thiên của lịch sử, giữa thời buổi kinh tế thị trường đầy tâm lí thực dụng mà phòng khách nhà bà Hiền – thế giới riêng của bà – vẫn giữ nguyên phong cách lịch lãm, quý phái của hơn nửa thế kỉ trước với tấm bình phong bằng gỗ chạm, bộ sa lông gụ, sập gụ, tủ chùa, lọ men Thuý hồng, lư hương đời Hán, liễn hấp sâm Giang Tây,… Những thứ đồ trưng bày đều là cổ vật quý giá, mang trong mình tính trang nghiêm, cổ kính của nhiều tầng văn hoá, biểu hiện cốt cách văn hoá của chủ nhân. Căn phòng khách có thể coi là biểu tượng cho con người có thế giới tâm hồn thanh sạch, luôn bình tâm trước mọi đổi thay. Và con người – chủ nhân của không gian ấy – cũng là một “cổ vật” hay một giá trị không phai nhoà của một thời vàng son. Hình ảnh bà Hiền đang lau đánh chiếc bát thuỷ tiên tưởng như đơn giản mà chứa đựng tất cả cái không khí Tết Hà Nội đặc trưng, đó sẽ là hình ảnh chắc chắn trong tương lai con người hiện đại phải nặng lòng hoài nhớ khi cái nhịp sống công nghiệp và xu hướng đô thị hoá ào ạt có nguy cơ tước đoạt hết những khoảng không gian yên tĩnh để di dưỡng tinh thần. Nhà văn đã dự cảm trước nguy cơ đó khi nêu câu hỏi: “Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà lại không buôn được vài ngàn củ thuỷ tiên”, “ví thử có thuỷ tiên liệu còn có người biết gọt tỉa thuỷ tiên?”. Và còn đáng buồn hơn nếu cách sống ồ ạt xô bồ đã khiến con người không còn biết bình tĩnh mà thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một giỏ thuỷ tiên. Phòng khách nhà bà Hiền là thế giới thực nhưng cũng đầy tính tượng trưng. Bà vẫn tỉnh táo, thức thời, có điều bà đã vượt lên trên thói thường nhờ cái tầng văn hoá tâm linh vô hình mà ám ảnh. Mối bận tâm của bà bây giờ có thể chỉ là chuyên cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn. Cây si ấy gợi liên tưởng đến sức sống trường tồn của tự nhiên mà cũng là sự hữu hạn của tự nhiên. Chính ý thức con người (việc làm kịp thời của Sở Văn hoá Hà Nội) sẽ khắc phục tính hữu hạn đó. Cây si nối quá khứ với hiện tại, là hoá thân của linh hồn Hà Nội, là niềm tin của người Hà Nội vào những giá trị bất diệt. Cuộc đời bà Hiền cũng như câu chuyện về cây si đã làm sáng tỏ chân lí mà nhà văn tâm niệm: “nói cho cùng, để sống được hằng ngày, tất nhiên phải nhờ vào những giá trị tức thời. Nhưng sống cho có phẩm hạnh, có cốt cách nhất định phải dựa vào những giá trị bền vững”.

Câu chuyện kết thúc khi những hoài nghi, bất bình của người kể chuyện vể cách ứng xử thô bạo ông gặp trên đường phố Hà Nội đã được hoá giải bởi những chiêm nghiệm của bà cô “ngoài bảy mươi tuổi” mà vẫn “giỏi quá”, “khiêm tốn và rộng lượng quá”. Bước ngoặt nhận thức khiến người kể chuyện, trong niềm hi vọng lạc quan, đã nảy ra một so sánh thật đẹp: “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ”. “Hạt bụi vàng” nhỏ bé nhưng là tinh tuý tạo nên ánh vàng “sáng chói” cho đất kinh kì. Nó cũng trở thành biểu tượng cho con ngựời Hà Nội: bình dị mà lớn lao, hữu hạn về thân xác mà vô hạn về tâm hồn. Trong cảm hứng ngợi ca, tự hào, ngòi bút Nguyên Khải không khỏi thoáng gợn chút rưng rưng tiếc nuối (hay một nỗi lo âu vẻ viễn cảnh phôi pha cái đẹp cổ truyền trước dòng chảy cuồn cuộn của dời sống thời kinh tế thị trường), phải chăng vì thế mà ông mơ ước: “Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng!”.

Một người Hà Nội rất đậm dấu ấn của tư duy tiểu thuyết: cốt truyện được nới lỏng, ít sự kiện, biến cố nhưng được kết cấu thành nhiều tình huống nhận thức. Sau mỗi lần gặp gỡ, người kể chuyện lại có thèm một phát hiện mới, một nhận thức mới về bà Hiền, để cuối cùng người đọc tự hoàn chỉnh chân dung người phụ nữ Hà Nội ấy. Thường xuyên tác giả đặt một sự việc, một vấn đề dưới nhiêu cách nhìn (khi công khai, khi ngầm ẩn), biện pháp đối sánh này là sản phẩm của tư duy dân chủ trong tiểu thuyết, tạo ra quan hệ bình đẳng giữa nhà văn và bạn đọc, đưa đời sống vào nhiều “toạ độ” đánh giá để mời gọi bạn đọc tham gia đối thoại. Bà Hiền có phải người Hà Nội điển hình không? Cách sống của bà, những ứng xử của bà có gì hạn chế?,… tất cả thực ra vẫn còn là những giả định, hình dung, những câu hỏi ngỏ vì tác giả đã luôn nhấn mạnh vào cái nhìn chủ quan của người kể chuyện. Như vậy, tôn trọng kinh nghiệm cá nhân không có nghĩa người đọc phải coi kinh nghiệm ấy là chân lí. Truyện không sa vào lí luận nặng nề hay nhàm tẻ mà có sự đan xen giọng điệu khá linh hoạt: đằng sau / ẩn trong giọng của người kể chuyện, thấp thoáng có những giọng khác. Hình tượng người kể chuyên ưa triết lí, suy ngẫm, lại xưng “tôi”, thậm chí tự tiết lộ tên mình là Khải (lời con trai bà Hiền: “Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến”), nghĩa là mang rất nhiều chi tiết tiểu sử tác giả, đã gợi cảm giác thân mật và tin cậy, rất thích hợp cho cuộc giao tiếp cởi mở giữa nhà văn với người đọc. Qua hình tượng người kể chuyện, hiển hiện một Nguyễn Khải có nhu cầu tự vấn, tự nhận thức lại về nhiều vấn đề tưởng đã là chân lí. Cảm hứng triết luận nghiêm túc không hoàn toàn lấn át cảm hứng tự trào – đấy là cái duyên riêng của tác giả Một người Hà Nội.

Phân tích nhân vật cô Hiền trong truyện Một người Hà Nội – Văn mẫu Một người Hà Nội 

Nguyễn Khải được coi là cây bút khá nổi tiếng của văn xuôi nước ta từ sau rách mạng tháng Tám. Những sáng tác văn chương của Nguyễn Khải phản ánh sinh động và khá chân thật quá trình vận động của cả nền văn học từ thời chiến tranh sang thời hòa hình. Trong những sáng tác trước năm 1977, Nguyễn Khải chủ yếu quan tâm đến các vấn đề mang tính thời sự chính trị. Và những sáng tác của ông từ năm 1978 về sau ông lại quan tâm nhiều hơn về cuộc sống đời thường. Ông đi sâu phản ánh và phân tích những diễn biến tâm lí khá phức tạp nhưng rất hợp lí của con người trong thời đại sau chiến tranh. Một người Hà Nội rút từ tập truyện Hà Nội trong mắt tôi là một tác phẩm tiêu biểu cho ngòi bút Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Trong truyện Một người Hà Nội Nguyễn Khải đã xây dựng khá thành công hình tượng nhân vật bà Hiền – một nhân vật khá tiêu biểu cho người Hà Nội.

Một người Hà Nội nói riêng và cả tập truyện Hà Nội trong mắt tôi nói chung là chứa đựng một tình yêu sâu nặng với Hà Nội với những hiểu biết sâu sắc và tinh tế của Nguyễn Khải về nét đẹp của cảnh vật và con người Hà Nội.

Cô Hiền xuất thân từ một gia đình giàu có, lương thiện, có học thức, yêu thích thơ văn. Cô Hiền đẹp, thông minh, được bố mẹ cho phép mở phòng tiếp khách văn chương, vẻ đẹp của cô Hiền là một vẻ đẹp khá toàn diện được tác giả thể hiện qua nhiều góc độ khác nhau, từ cách chọn người bạn trăm năm đến việc thu xếp việc nhà, sinh con và răn dạy con cái.

Về hôn nhân, cô Hiền đã vượt qua thói thường tình của con người, cô không ham danh, hám lợi, không cơ hội, không lính toán. Cô có một quan điểm rất nghiêm túc đúng đắn về hôn nhân. Là một phụ nữ có nhan sắc, yêu văn chương, thời còn con gái tiếp xúc nhiều với những văn nhân nghệ sĩ, nhưng cô lại không sống theo lối sống lãng mạn, viễn vông. Cô cũng chả hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ, văn nhân, đùa vui một thời son trẻ thế là đủ. Cô chọn người bạn đời của cô cũng không phải là một ông quan nào mà là một ông giáo cấp tiểu học, hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc. Cô Hiền luôn đặt trách nhiệm làm vợ, làm mẹ lên trên mọi thú vui khác. Cô coi việc phụng dưỡng chồng, chăm sóc cho chồng con là một niềm vui, là niềm hạnh phúc của cô. Trong việc quản lí gia đình cô Hiền luôn là người chủ động, tự tin và xác định rõ vai trò quan trọng của người vợ trong gia đình. Theo cô “Người đàn bà không làm nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao”. Vì vậy mà cô Hiền đã phê phán cái thói “bắt nạt vợ” quá đáng của người cháu. Cô là một người sớm có nhận thức về “bình đẳng nam nữ”.

Về việc dạy con, cô Hiền dạy con khi chúng còn nhỏ và dạy từ những chuyện sinh hoạt hàng ngày trong gia đình như cách ngồi ăn, cách cầm bát, cầm đũa, múc canh … vì cô cho đó là một hình thức văn hóa: văn hóa ẩm thực, văn hóa sống … và hơn nữa, đó là văn hóa của người Hà Nội. Theo cô, người Hà Nội phải sống cho thật chuẩn mực: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”.

Đọc thêm  Phân tích hình tượng chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

Về việc sinh con, cô Hiền cũng có quan điểm rất tiến bộ so với những người đương thời. Cái thời mà người ta thích đẻ nhiều để sau này có “con đàn, cháu đống” cho vui cửa, vui nhà và họ coi đó là niềm hạnh phúc. Họ thích đẻ nhiều mà ít quan tâm đến việc nuôi nấng và giáo dục con cái đến nơi đến chôn vì họ cứ theo cái quan niệm cũ: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Cũng ở vào cái thời đại đó nhưng cô Hiền lại có một nhận thức đúng đắn, tiến bộ. Cô không tin vào việc “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”, và cô có một quyết định khá dứt khoát: chấm dứt việc sinh đẻ vào năm bốn mươi tuổi, để có điều kiện nuôi dạy con cái một cách chu đáo để chúng có thể “sống tự lập”, không bị lệ thuộc, sống có nhân, cách. Tình yêu thương con của cô Hiền là một thứ tình cảm sáng suốt của một người mẹ có nhân cách, giàu lòng tự trọng, có suy nghĩ sâu sắc, đúng đắn, có tầm nhìn sâu rộng.

Một nét đẹp ở cô Hiền mà khiến chúng ta phải khâm phục và trân trọng đó là “lòng tự trọng“ rất cao cả của cô. Lòng tự trọng không cho phép con người ta sống ích kỉ và hèn nhát. Chính vì có lòng tự trọng cao nên cô Hiền bằng lòng cho đứa con trai lớn của mình là Dũng đi chiến đấu mặc dầu lòng cô đau đớn lắm vì cô “không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè”. Tiếp đến, cô Hiền cho đứa em Dũng tiếp bước anh mình “bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Lòng tự trọng ấy cũng chính là lòng yêu nước, ý thức cộng đồng thâm trầm, sâu sắc mà không cần ồn ào của cô Hiền.

Cô Hiền là một người sống chuẩn mực có bản lĩnh, tự tin ở chính mình. Cô Hiền có cách sống và vẻ bề ngoài có vẻ tư sản nhưng không hề bị đi học tập cải tạo vì cô chẳng hề bóc lột ai, cô chỉ sống bằng cái nghề làm hoa giấy. Cô Hiền là một con người mang đậm chất Hà Nội. Chất Hà Nội của cô Hiền được thể hiện qua cách sống lịch lãm, sang trọng của cô. Điều này được thể hiện rất rõ ngay trong phòng khách của cô. Phòng khách của cô như lưu giữ cái hồn Hà Nội: cổ kính, quý phái và tinh tế mà “suốt mấy chục năm không hề thay đồi”. Chất Hà Nội của cô Hiền được thể hiện qua thái độ ung dung, tự tại trước những biến động của thời cuộc: cô không hề lo sợ trước sự thắng lợi của cách mạng và cũng không tỏ ra mừng vui quá mức. Câu trả lời của cô trước câu hỏi hơi nghiệt của đứa cháu:

– “Tại sao cô không phải học tập cải tạo. Cô giấu cũng tài nhỉ ?”

– “Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được. ”

Hoặc:

– “Nước độc lập vui quá cô nhỉ”

– “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?” đã thể hiện khá rõ chất ung dung tự tại của cô Hiền.

Hơn thế nữa, chất Hà Nội ở cô Hiền còn được thể hiện qua sự khôn ngoan, sâu sắc của trí tuệ như việc cô nói về lẽ tuần hoàn: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được’’, hoặc việc cô bộc lộ niềm tin vào tương lai vào cái đẹp của Hà Nội vẫn tồn tại vĩnh viễn, dẫu mỗi thời điểm cái đẹp có khác nhau: “Mỗi thế hệ điều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi”.

Nhìn chung lại, ta thấy cô Hiền là một người phụ nữ không những có nhan sắc mà còn có một vẻ đẹp tâm hồn rất lớn. Cô Hiền là một người phụ nữ mẫu mực rất yêu chồng và thương con, có lòng lự trọng cao, có nhiều quan điểm rất tiến bộ như trong việc sinh con, giáo dục con, sống chuẩn mực, lịch lãm, điền đạm, luôn giữ phong cách của một người Hà Nội và rất yêu Hà Nội, tin tưởng vẻ đẹp của Hà Nội không bao giờ mất đi. Hay nói một cách khác cô Hiền là một người tiêu biểu cho vẻ đẹp của người Hà Nội.

Phân tích Vẻ đẹp của nhân vật Hiền trong tác phẩm Một người Hà Nội – Văn mẫu Một người Hà Nội 

Nguyễn Khải là nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm “Mùa lạc”,“Một chặng đường”,“Tầm nhìn xa”. Trước năm 1978, tác phẩm của Nguyễn Khải là cái nhìn tỉnh táo, sắc lạnh, luôn khai thác hiện thực trong thế xung đột, đối lập cũ – mới, tốt – xấu, ta – địch. Từ năm 1978 trở về sau, tác phẩm của ông là cái nhìn trăn trở, chiêm nghiệm, cảm nhận cái hiện thực xô bồ, hối hả, đổi thay nhưng cũng đầy hương sắc. Chuyển mạnh từ hướng ngoại sang hướng nội. Nhà văn nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, quá khứ dân tộc, gia đình và sự tiếp nối thế hệ. Từ đó nhà văn khẳng định những giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người hôm nay. Nhân vật bà Hiền trong tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận ấy của nhà văn.

Tác phẩm “Một người Hà Nội” tiêu biểu cho các tác phẩm của Nguyễn Khải sau giai đoạn 1978, vẻ đẹp của hình tượng của cô Hiền tiêu biểu cho nét đẹp và sức sống bất diệt của Hà thành. Qua nhân vật này, nhà văn Nguyễn Khải đã nói lên biết bao nhiêu điều có tính triết lý về sự thay đổi của thời gian, không gian nhưng vẻ đẹp của con người và vốn văn hóa cùng tính cách người Hà Nội mãi là giá trị tinh thần không thay đổi.

Nhân vật cô Hiền vốn xuất thân trong một gia đình giàu có, lương thiện, được dạy dỗ theo khuôn phép nhà quan, thời trẻ là một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, mở xalông văn chương để giao lưu rộng rãi với giới văn nghệ sĩ Hà thành. Cô là con người trí thức, hiểu biết rộng, là con người có “bộ mặt tư sản”, một cách sống rất tư sản: “Ở trong một tòa nhà rộng, tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung đền Ngọc Sơn”. Cái mặc cũng sang trọng quá: “Mùa đông ông mặc áo Ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo Măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm”. Cái ăn cũng không giống với số đông: “Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản, và từng người ngồi đúng chỗ quy định”. Đây là một lối sống nền nếp, lịch lãm, nhìn thì cứ ngỡ là tư sản nhưng thực chất cô Hiền không phải là tư sản bởi vì “Cô không bóc lột ai cả thì làm sao gọi là tư sản”. Cô làm ăn lương thiện với cửa hàng hoa giấy do chính tay tự làm và các con phụ giúp. Trong quan hệ với người làm, chủ và tớ “dựa vào nhau mà sống”. Tình nghĩa như người trong họ. Đây chính là vẻ đẹp của người lao động chân chính, có nhân có nghĩa.

Vẻ đẹp của cô Hiền được miêu tả trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử. Nhân vật lại có những biểu hiện ứng xử thể hiện cá tính đặc biệt nhất quán.

Khi hòa bình lập lại 1955, nhân vật “Tôi” từ kháng chiến trở về. “Hà Nội nhỏ hơn trước, vắng hơn trước”. Người thì tìm những vùng đất mới để làm ăn, sinh sống. Riêng gia đình cô Hiền vẫn ở lại Hà Nội “Họ không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất khác”. Đây chính là sự gắn bó máu thịt, tình yêu của cô đối với Hà Nội. Hay sau kháng chiến chống Mỹ, mỗi bận nhân vật “tôi” từ Sài Gòn trở về Hà Nội, bà băn khoăn hỏi “Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá như thế nào, dân tình thế nào ?”. Cứ ngỡ đó chỉ là câu hỏi xã giao nhưng thực chất là chứa đựng tất cả những đau đáu, phấp phỏng và hi vọng về tương lai Hà Nội.

Nhân vật bà Hiền mang vẻ đẹp thanh lịch của người đất kinh kỳ. Đó là vẻ đẹp có trong bản thân nhân vật và được nhân vật không ngừng ý thức vun đắp. Đúng như câu ca xưa viết về con người Hà Nội:

“Chẳng thơm cũng thể hoa lài

Chẳng lịch cũng thể con người Tràng An”

Vẻ đẹp thanh lịch đó được thể hiện ở cách bà nuôi dạy con, uốn nắn cho chúng từ thói quen nhỏ nhất như cách cầm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn, cách đi đứng… Điều này thật khác với cách sinh hoạt của gia đình nhân vật xưng tôi “Cứ việc sục muôi, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát mắng con cái, nhồm nhoàm, hả hê, không phải theo một quy tắc nào cả”. Với bà Hiền đây không phải là chuyện sinh hoạt vặt vãnh mà là văn hóa sống, văn hóa ứng xử của người Hà Nội: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng”. Bà còn nói làm người Hà Nội thì phải “biết lòng tự trọng, biết xấu hổ”. Đây không phải là biểu hiện của sự kỹ tính mà thể hiện nét tinh tế của một người có văn hóa.

Vẻ đẹp thanh lịch ấy còn thể hiện qua lối sống, qua những thói quen lịch lãm rất Hà Nội. Dường như sự lịch lãm ấy như dòng máu chảy trong huyết quản của bà qua bao thời gian. Thời thiếu nữ thì mở xalông văn chương, khi về già thì tĩnh tâm hưởng ngoạn cái đẹp, trang trọng giữa nhịp sống xô bồ, náo nhiệt với hình ảnh ngồi “Tỉa thủy tiên mỗi khi xuân về”, qua không khí căn phòng khách cổ kính, trang trọng với “Bình phong bằng gỗ chạm… Cái sập gụ chân quỳ … Cái lư hương đời Hán”. Tất cả đều tinh tế và quý phái đậm hồn Hà Nội.

Sau chiến tranh, giữa đời thường là vẻ đẹp của một bà Hiền bình dân như bao con người khác “Áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, khăn len buộc đầu”. Nhưng điều đáng quý ở bà là quan niệm sống “Xã hội lúc nào cũng phải có một gia tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị”. Đây là một quan niệm đẹp về cái chuẩn thanh lịch. Khác với kiểu buông tuồng. Bữa tiệc chiêu đãi hai anh lính từ chiến trường miền Nam trở về đã giúp tác giả nói lên được vẻ đẹp ấy, đó là vẻ đẹp thanh lịch đúng chuẩn của con người Hà Nội. “Các ông mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cổ thắt caravat, các bà lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc, đeo dây đi lại uyển chuyển”. Vẻ đẹp này không chỉ là vẻ đẹp một thời mà là cả một đời, nó sẽ là vẻ đẹp trầm tích văn hóa cho một thời vàng son của lịch sử.

Ngoài vẻ đẹp thanh lịch quý phái, ở bà còn toát lên vẻ đẹp của bản lĩnh cá nhân, bản lĩnh sống của người Hà Nội, hiểu biết, nhận thức về cuộc sống hết sức thực tế. Là người phụ nữ nhưng bà mạnh mẽ, chủ động, tự tin, dám là chính mình. Trong hôn nhân bà chủ động lấy một ông giáo tiểu học hiền lành chăm chỉ. Bà nào chọn ai trong số đám văn nhân một thời vui chơi ? Sự kiện ấy làm cả Hà Nội “kinh ngạc”. Bà tính toán việc sinh con đẻ cái sao cho hợp lý, đảm bảo tương lai con cái. Nếu trong thời kỳ phong kiến vai trò của người phụ nữ bị xem nhẹ thì trong xã hội hôm nay, bà Hiền luôn đề cao người phụ nữ “Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao”. Bà cũng quyết định luôn cái kinh tế gia đình trong cái buổi giao thời đầy phức tạp. Ông chồng định mở tiệm máy in trong khi nhà nước đang có ý “không thích cá nhân làm giàu”. Bà nhanh chóng cản ngăn “Ông muốn làm ông chủ ở cái chế độ này à?”. Đây chính là cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt của con người biết nhìn xa trông rộng.

Bản lĩnh ở bà còn là tính thẳng thắn. Bà bày tỏ rất thẳng nhận xét của mình về cuộc sống với bao vấn đề. Theo bà “Chính phủ can thiệp quá nhiều vào việc của dân quá, nào là phải tập thể dục mỗi sáng, sinh hoạt văn nghệ mỗi tối”. Bà cũng nhận ra cái gì đó không phù hợp trong cách nghĩ “không thích cá nhân làm giàu”. Đây chính là thái độ nói thẳng nói thật của con người trung thực, có cái nhìn sâu sắc với thời cuộc.

Vẻ đẹp của bà Hiền còn là vẻ đẹp của một nhân cách sống cao thượng, vẻ đẹp của con người Hà Nội luôn coi lòng tự trọng là thước đo phẩm giá của mình. Lòng tự trọng ấy được thể hiện rõ nét nhất qua câu chuyện của bà về hai người con đi bộ đội. Khi anh Dũng xin đi bộ đội vào Nam chiến đấu, bà nói với nhân vật “tôi”: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Đến lượt thằng con thứ hai lên đường bà cũng nói “Tao không khuyến khích cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm con đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Bà muốn sự công bằng như bao bà mẹ khác “Tao cũng muốn sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm gì”. Là người mẹ ai mà không yêu con, không muốn con gặp gian nguy, bất trắc nhưng ở đây bà Hiền muốn dạy con đừng bao giờ sống đớn hèn, sống bám vào sự hi sinh của người khác là sống đáng hổ thẹn. Lòng tự trọng không cho phép con bà sống hèn nhát, ích kỷ. Ở đây bà còn hiện lên vẻ đẹp của người mẹ thời chiến có ý thức trách nhiệm với đất nước với dân tộc, biết sẻ chia trước đau thương mất mát của biết bao người mẹ khác. Lòng tự trọng giúp con người ta sống có trách nhiệm với cộng đồng. Ở bà Hiền, lòng tự trọng của cá nhân đã hòa vào lòng tự trọng của dân tộc. Đây là một cách ứng xử rất nhân bản.

Bà còn là con người luôn lưu giữ những niềm tin vào cuộc sống. Dù sống trong cơn lốc thị trường làm xói mòn đi nếp sống của người Hà Nội ngàn năm văn vật nhưng nó không làm lay chuyển được ý thức của con người luôn tin vào giá trị văn hóa bền vững của Hà Nội không thể mất đi. Bà quan niệm rằng “Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son, mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”. Đấy chính là niềm tin mãnh liệt vào những giá trị cổ truyền. Nhà văn còn đem hình ảnh cây si cổ thụ vào phần cuối của truyện với thái độ ngợi ca nhân vật với sự trân trọng những giá trị tâm linh. Cây si bật gốc đổ lên mái đền Ngọc Sơn nhưng nhờ vào tình yêu và niềm tin của con người mà nó đã sống lại. Sự sống lại cây cổ thụ là niềm lạc quan tin tưởng của tác giả vào sự phục hồi những giá trị tinh thần của Hà Nội. Những giá trị văn hóa bền vững sẽ không mất đi, nhà văn ao ước những giá trị ấy sẽ hóa thân vào hiện tại “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ lung linh chói sáng những ánh vàng”.

Làm nên thành công của tác phẩm nói chung và xây dựng nhân vật bà Hiền nói riêng là nhờ vào ngôn ngữ kể chuyện đặc sắc, có tính cá thể hóa. Nhà văn ít miêu tả, chủ yếu là kể, kể bằng quan sát, phân tích và bình luận sắc sảo giàu ý nghĩa. Giọng điệu trần thuật mang tính trải đời, tự nhiên, trĩu nặng suy tư, giàu chất khái quát, đa thanh, mang đậm yếu tố tự truyện qua “cái tôi”, (giọng kể tự tin xen lẫn hoài nghi, tự hào xen lẫn tự nhiên tăng tính chân thật, khách quan.)

Qua nhân vật bà Hiền, nhà văn khẳng định sức sống bền bỉ của các giá trị văn hóa mang nét đẹp Hà Nội. Qua đó tác giả gửi gắm niềm thiết tha gìn giữ các giá trị ấy cho hôm nay và cho cả mai sau. Từ đó chúng ta thêm yêu quý, tự hào về văn hoá, đất nuớc, con người Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và nối tiếp thế hệ. Nhân vật bà Hiền là “Một người Hà Nội” mãi mãi là hạt bụi vàng trong bể vàng trầm tích của văn hóa xứ sở.

Cảm nhận về truyện ngắn Một người Hà Nội – Văn mẫu Một người Hà Nội 

Một người Hà Nội là truyện ngắn giàu tính triết luận, được sáng tác trong bối cảnh đổi mới văn học sau 1986. Triết luận vốn là một nét trội trong phong cách văn xuôi Nguyễn Khải thuộc giai đoạn sáng tác từ cuối những năm bảy mươi (của thế kỉ XX) trở đi, gắn liền với việc soi xét đối tượng dưới các góc độ văn hoá, lịch sử và triết học.

Trước đó, sáng tác của Nguyễn Khải đầy ắp cảm hứng chính luận, chuyên đề cập các vấn đề thời sự, chính trị của đất nước và thường lấy tiêu chí chính trị, đạo đức cách mạng để bàn luận, đánh giá sự kiện, con người. Rõ ràng, sự chuyển đổi từ cảm hứng chính luận sang cảm hứng triết luận đánh dấu một bước phát triển đáng ghi nhận trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Hứng thú quan sát, thể hiện những vấn đề thế sự, đặc biệt là vấn đề khẳng định bản lĩnh cá nhân của con người giữa một hoàn cảnh sống mà cái “tôi” chưa được nhìn nhận công bằng, thoả đáng, tất cả đều liên quan tới việc chuyển đổi cảm hứng nói trên. Các sáng tác lúc này vẫn không thiếu tính thời sự, nhưng giá trị của chúng đã vượt ra khỏi cái khung thời sự nhất thời để gây ám ảnh lâu dài. Việc nhà văn có ý thức tô đậm kinh nghiệm, thể nghiệm của cá nhân mình trong việc trình bày mọi vấn đề đã làm cho những trang viết của ông thấm đượm tinh thần đối thoại dân chủ, thoát li dần kiểu áp đặt chân lí một chiều trước đây.

Đọc thêm  Văn mẫu 12: Cảm nhận Những ngày đầu của nước Việt Nam mới

Với một sáng tác mang tính triết luận, việc xếp đặt các nhân vật được miêu tả trong đó vào các phạm trù tốt – xấu, chính diện – phản diện quen thuộc một thời đã trở nên bất cập. Sự đánh giá về nhân vật có thể rất đa chiều. Lời khen hay lời chê của tác giả (thể hiện qua nhân vật kể chuyện xưng “tôi”) lúc này cũng chỉ có giá trị tham khảo thuần tuý, không hề mang tính chất “chân lí”, không phải là kết luận tối hậu. Trong Một người Hà Nội “, “tôi” nhìn nhận bà Hiền là “một hạt bụi vàng”, đó là quyền của “tôi”. Người khác có thể có cách nhìn nhận khác, tất nhiên, không thể không tham khảo cách nhìn có tính chất gợi ý mà “tôi” đưa ra. Nếu không hiểu nguyên tắc đánh giá này, lại lấy cách xây dựng nhân vật trong truyện của Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác trước làm hệ quy chiếu, độc giả rất dễ có những phán quyết vô lí về tác giả trên các vấn đề quan điểm, lập trường chính trị, hoặc ngược lại, ra sức tán dương nhân vật bà Hiền, gán cho bà những phẩm chất tốt đẹp (theo mong muốn hay tưởng tượng, suy diễn của chính độc giả) mà bản thân nhân vật “tôi” không nói tới trong câu chuyện của mình.

Nếu căn cứ vào những gì đã được thể hiện trong truyện ngắn, độc giả có thể đặt lại tên tác phẩm Một người Hà Nội thành Nghĩ về một người Hà Nội. Dĩ nhiên, đây là đặt cho mình, nhằm mục đích lĩnh hội đúng tinh thần tác phẩm, cảm nhận đúng ý nghĩa của “thành phần” suy nghĩ trong kết cấu truyện ngắn này. Quả là chuyện kể không có gì thật đặc biệt, nhưng suy nghĩ, đánh giá của nhân vật “tôi” thì lại chứa đựng nhiều điều thú vị. Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Khải vốn là thế : tỉ trọng những lời phân tích, bình luận bao giờ cũng lớn, nhiều khi lấn át cả sự miêu tả, trần thuật khách quan về đối tượng.

Viết Một người Hà Nội, điều cơ bản mà nhà văn hướng đến chưa hẳn là ca ngợi một con người, cho dù người đó đáng ca ngợi bao nhiêu đi chăng nữa. Cảm hứng chính của ông là khám phá bản sắc văn hoá Hà Nội – cái quyết định vận mệnh và vị thế của Hà Nội trong lịch sử, cũng là cái làm nền tảng cho bước phát triển mới của nó trong tương lai. Không phải ngẫu nhiên mà khi ngắm hình ảnh bà Hiền “lau đánh cái bát bày thuỷ tiên”, ông đã có một ghi chú tưởng như là bâng quơ : “nếu là một thiếu nữ thì phải hơn”[1], rồi cảm thán : “thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội”. Cũng hoàn toàn hợp lô gích việc nhà văn đã kết lại truyện ngắn như thế này : “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng !”. Lô gích thì lô gích nhưng vẫn lạ. Ai đã từng quen với giọng văn tinh sắc, tỉnh táo, thậm chí là “lọc lõi” của Nguyễn Khải, hẳn phải ngỡ ngàng trước cái giọng “bốc” lên khá đột ngột mà nhà văn biểu lộ ở đây. Một chút giỡn đùa với chính văn mình hay niềm xúc động tận đáy tâm can cứ bật ra không nén được ? Trả lời quyết hẳn theo bề nào cũng khó, nhưng điều có thể khẳng định chắc chắn là : Nguyễn Khải thật sự yêu quý Hà Nội, có những suy nghĩ thâm trầm về “đất kinh kì” và tha thiết được thấy một Hà Nội hiện đại, đẹp, sang, xứng với bề dày văn hoá truyền thống của nó.

Hình tượng bà Hiền được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con của nó. Bà Hiền không phải là một “tấm gương” kiểu mẫu hiểu theo nghĩa thông thường để các tổ chức xã hội nêu lên cho mọi người học tập, theo cách người ta vẫn thường làm nhằm mục đích tuyên truyền, vận động. Bà chỉ là người dân bình thường, dù xuất thân là con nhà “tư sản”, dù đã có một thời “vang bóng” (mà thực ra, “tư sản” thì cũng có thể là người dân bình thường được chứ !). Tác giả (và người kể chuyện) hiểu vậy nên chọn cách giới thiệu, chuyện trò về bà thật dung dị. Bà là một người bà con xa, người dì họ của “tôi”, thế thôi ! Mọi việc bà làm đều tự nhiên, như cuộc sống hàng ngày, chẳng gây chấn động gì tới xung quanh cả. Ấy vậy, ai dám bảo chất Hà Nội ở bà không đậm đặc ? Vả lại, muốn khám phá bề sâu văn hoá của một vùng đất, tuyệt đối không được bỏ qua những điều tưởng là nhỏ nhặt. Nhiều khi chính chúng lại cung cấp cứ liệu thuyết minh về vấn đề có sức nặng hơn hẳn những chuyện to tát. Dõi theo mạch kể của nhân vật “tôi”, người đọc thấy quả không có gì đáng gọi là “sự kiện” việc bà Hiền lấy chồng, quản lí gia đình, sinh con, dạy con, cho con đi bộ đội, tiếp khách, bài trí nơi ở, duy trì nếp sinh hoạt riêng,…

Một câu bình phẩm của “tôi”, rằng, việc bà lấy ai không lấy, lại lấy một ông giáo cấp tiểu học hiền lành chăm chỉ làm chồng đã “khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”, phần nhiều chỉ là một cách nói ngoa ngôn khá đặc thù của văn chương. Nếu quả người ta có kinh ngạc, thì đó là sự kinh ngạc trước một chuyện không ngờ lại xảy ra bình thường (thậm chí là tầm thường) quá như thế. Tuy vậy, nếu bình tâm suy xét, ta lại thấy trong tất cả những cái bình thường kia lại chứa đựng một triết lí sống đáng vị nể, vừa thể hiện bản lĩnh cá nhân một con người, vừa bộc lộ kiểu ứng xử đặc trưng của đất kinh kì. Bà Hiền biết rõ mình là ai (câu tuyên bố “thẳng thừng” của bà đối với nhân vật “tôi” đã chứng thực điều đó : “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”), và cũng tương tự thế, bà hiểu sâu xa mình là người Hà Nội. Sau năm 1954, gia đình bà chẳng di cư vào Nam vì “không thể rời xa Hà Nội”. Đây không đơn giản chỉ là một biểu hiện của tình yêu đối với nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, mà còn là một biểu hiện của niềm tin vào thế tồn tại bền vững của mảnh đất đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, có văn hoá riêng đã thấm vào máu thịt cư dân nơi này.

Bà Hiền có thể không nghĩ một cách rành rọt như vậy, nhưng tác giả và nhân vật “tôi” – một sự hoá thân của ông – thì ý thức về điều này quá sâu sắc. Nhân vật “tôi” cũng khó lòng quên lời bà Hiền răn lũ con của anh : “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Hoá ra vậy, làm người Hà Nội vừa là một vinh dự, vừa là một trách nhiệm. Bà Hiền hẳn là luôn đau đáu về vấn đề này, chẳng thế mà dù đã ngoài bảy mươi, bà vẫn để lộ tâm sự đó của mình khi hỏi người cháu (“tôi”) vừa mới từ thành phố Hồ Chí Minh ra thăm : “Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá thế nào, dân tình thế nào ?” Ngỡ đó chỉ là một câu hỏi xã giao thông thường mà thực chất lại gửi gắm bao nỗi niềm, bao phấp phỏng và hi vọng về tương lai của Hà Nội.

Những điều vừa nói trên chứng minh sự gắn bó làm một, rất máu thịt, giữa bà Hiền và Hà Nội. Nhưng cốt lõi ứng xử của người Hà Nội được thể hiện qua bà Hiền là cái gì ? Khi kể về bà, nhân vật “tôi” rất hay nói đến chữ tính : “tính thế là đúng”, “Mọi sự mọi việc đều được các bà tính trước cả. Và luôn tính đúng…”, “đã tính là làm”, “Cô tôi tính toán việc nhà việc nước đại khái là như thế”, “cô muốn mở rộng sự tính toán…”. Dĩ nhiên, đã “tính đúng” thì người đó là người khôn (“cô khôn hơn các bà bạn của cô”), người “có đầu óc rất thực tế”, biết thích ứng. Với người “khôn”, mọi điều khó mấy xem ra cũng có thể thu xếp được một cách khá nhẹ nhàng : là “tư sản” mà khi ở với chính quyền mới, gia đình bà Hiền không bị hề hấn gì, bà lại có khả năng nuôi cả gia đình đủ ăn mà không phải dính dáng gì tới hai chữ “bóc lột”… Bà Hiền có thể “cười rất tươi” – một kiểu cười quá đỗi tự tin – khi ông cháu thóc mách : “Tại sao cô không phải học tập cải tạo, cô giấu cũng tài nhỉ ?” Nói ra toàn những chuyện như thế về bà Hiền, phải chăng tác giả muốn kết luận rằng cái “bản sắc” của người Hà Nội là tính và khôn ? Sự thực hoàn toàn không phải thế. Đằng sau mỗi câu chuyện kể về bà Hiền, tác giả luôn luôn cho ta thấy sự tồn tại của một bản lĩnh sống vững vàng, một khả năng tự ý thức rất cao, một lòng tự trọng không thể nghi ngờ.

Tự trọng ở đây gắn liền với việc không để mình rơi vào tình trạng nhục nhã, sống giữ được cốt cách và đặc biệt là không quên trách nhiệm với cộng đồng (một tinh thần trách nhiệm không cần tuyên bố ồn ào, bốc đồng, hời hợt). Những lời thổ lộ của bà Hiền xung quanh việc bằng lòng cho hai đứa con đi bộ đội thể hiện rõ điều này : “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”, “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”, “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm gì”… Không phải không có những ngộ nhận về tính cách người Hà Nội. Trong truyện, tác giả đã khéo tạo ra một tình huống để làm rõ vấn đề này. Trong khi nhân vật “tôi”, giữa một bữa tiệc, đã “nói hơi nhiều” những ý chê trách Hà Nội trong sự so sánh nó với những vùng miền khác, thì nhân vật Dũng, con bà Hiền, mới từ chiến trường miền Nam trở về, đã kể cho mọi người nghe về phản ứng tâm lí của một người mẹ Hà Nội có con hi sinh: “Bà níu chặt lấy một cánh tay của cháu, người bà run bần bật nhưng không khóc, và bà nói run rẩy: “Nín đi con, nín đi Dũng! Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay rồi”. Đúng là một sự đối trọng. Câu chuyện của Dũng tự nó nói lên bao điều!

Ta đã phân tích khả năng tính của bà Hiền, một người Hà Nội. Tính không phải bao giờ cũng gắn với thói thực dụng. Nhiều khi, nó là đòi hỏi bắt buộc của một cách tồn tại giữa thời cuộc có nhiều thay đổi, xáo trộn khó lường. Bà Hiền quá nhạy cảm về vấn đề này. Bà có chính kiến, chủ kiến riêng về nhiều chuyện “vĩ mô” của nhà nước, chế độ. Khi đứa cháu nói: “Nước được độc lập vui quá cô nhỉ?”, bà đã trả lời : “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”. Theo bà “Chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở…”. Bà cũng nhận ra có cái gì đó không phù hợp trong cách nghĩ “không thích cá nhân làm giàu”: “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”. Đặc biệt, bà có một quan điểm hết sức khác thường: “Xã hội lúc nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị…”. Chưa hết, bà còn phát biểu về cái huyền vi của sự sống mà càng ngày ta càng phải thừa nhận: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được”.

Như vậy, trong cái tính của bà Hiền có chứa đựng một “tầm nhìn xa” đáng để cho nhân vật “tôi” phải thốt lên khâm phục: “Bà vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc…”. Chính tầm nhìn xa có ở bà Hiền, rộng ra là có ở nền văn hoá của đất kinh kì đã tạo nên cái mà trên kia ta đã gọi là thế tồn tại uyển chuyển và ngoan cường của Hà Nội, vượt lên trên mọi ba động của đời sống chính trị. Chi tiết bà Hiền kể cho nhân vật “tôi” nghe về sự hồi sinh sau cơn bão của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn mang ngụ ý triết lí sâu sắc. Các nhân vật trong truyện dường như chỉ “luận” về sự kiện này xoay quanh sự tiếp nối của nhiều thế hệ người Hà Nội. Kì thực, ý nghĩa của nó trong cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm còn lớn hơn thế. Cũng cần lưu ý : nhiều quan điểm được nói ra từ miệng bà Hiền cũng là cái mà nhân vật “tôi” và tác giả tỏ ra tâm đắc. Lời trần thuật khách quan về đối tượng đã quyện chặt với lời phân tích mang theo cách đánh giá riêng của người viết. Đây quả là một nét đặc sắc của văn Nguyễn Khải – một nhà văn vẫn được nhiều người viết khác cùng thế hệ bái phục về “năng khiếu” có thể gài lồng được vào sáng tác của mình những tư tưởng riêng đầy táo bạo, không dễ phát ngôn, về đời sống.

Nói về “dân” Hà Nội, người ở nhiều vùng miền khác vẫn thường thừa nhận thanh lịch là đặc điểm nổi bật. Vậy, ở một người khôn ngoan, giỏi tính toán như bà Hiền, nét thanh lịch ấy có tồn tại không và nếu có thì nó được biểu hiện như thế nào ? Thực ra, không hề có sự đối chọi nào giữa các phẩm chất ấy trong con người bà Hiền cả. Đừng lầm về kiểu xưng hô bỗ bã của bà đối với con cháu (vốn nó biểu hiện rõ tư cách của con người quyết đoán, ý thức mình là “nội tướng” trong gia đình), mà hãy nhìn vào thực chất của vấn đề, biểu hiện qua thái độ chu tất trong nết ăn, nết mặc, trong cử chỉ lau đánh cái bát đựng hoa thuỷ tiên, trong việc duy trì một cách “bướng bỉnh” cái nền nếp sinh hoạt xa lông một thời vẫn thường bị định kiến là “tư sản”. Không, trong ngày thường, một người như bà Hiền đã hoà nhập rất tốt vào cuộc sống chung, cũng “áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu”.

Nhưng bà, cũng như các bạn của mình, không vì vậy mà không được quyền sống cho mình. Họ, lúc cần, đã biết rũ bỏ “đồng phục” để hoá thân thành những con người khác, đáng để cho những kẻ yêu cái đẹp ngắm nhìn : “bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển”. Tất cả những điều đó cũng là biểu hiện cụ thể của bản lĩnh sống – một vấn đề hết sức nghiêm túc cần được nhìn nhận thấu đáo trong hoàn cảnh sống của đất nước, của thời đại bây giờ.

Nhìn chung, bà Hiền đúng là một người Hà Nội, dù bà không thuộc “típ” điển hình quen thuộc mà văn học cách mạng một thời ưa xây dựng trong cảm hứng ngợi ca. Dĩ nhiên, bà cũng đã dành được sự ngợi ca, quý trọng rất mực của nhân vật “tôi”, của tác giả, nhưng đây là sự ngợi ca, quý trọng xuất phát từ một tiêu chí đánh giá khác với trước. Cái lõi của tiêu chí đó chính là sự khẳng định bản lĩnh cá nhân của con người trong đời sống – điều sẽ khiến cho con người trong khi biết thích ứng với thời đại thì vẫn đóng góp được nhiều cho việc cải biến, cải tạo môi trường tồn tại của mình theo hướng tích cực.

Viết về một mẫu người như bà Hiền, văn Nguyễn Khải trở nên khoái hoạt hơn bao giờ hết. Hoàn toàn có thể nói bà Hiền chính là nhân vật lí tưởng (không nhất thiết phải là nhân vật anh hùng, nhân vật phi thường) của sáng tác Nguyễn Khải giai đoạn từ khoảng 1978 trở đi (theo sự tự phân chia của chính nhà văn). Qua bà cũng như qua các nhân vật khác thuộc loại này, nhà văn đã thực sự có đóng góp cho việc dân chủ hoá hoạt động sáng tác văn học nước nhà. Các thước đo về con người, cuộc sống trở nên đa dạng hơn, và chính điều đó đã kích thích tinh thần đối thoại ở độc giả. Thì đó, nhân vật “tôi” trong tác phẩm đâu có được xây dựng như một con người nắm giữ chân lí, có quyền đưa ra lời phán quyết sau cùng về mọi sự. Anh ta đã từng hiện lên như một kẻ khôn ranh, ứng xử thiếu đàng hoàng với người cô “tư sản” (không ghi tên bà Hiền trong lí lịch cán bộ), một kẻ tự thị vô lối khi đưa ra những lời nhận xét hấp tấp về Hà Nội trong một bữa tiệc. Anh ta cũng có thể sai, cũng phải chịu lời phản biện từ chính thực tế cuộc sống. Biết nghĩ về sự “nín lặng” (không đồng nghĩa với sự chấp thuận) của người khác thì cũng đồng nghĩa với việc tự mình biết sẵn sàng nín lặng khi những “ý thức” khác cất lời. Sự hấp dẫn của văn của Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác thứ hai chính được đưa tới từ đặc điểm giàu tính đối thoại dân chủ này.

Dù không có ý áp đặt cho ai về cách đánh giá một con người, cụ thể ở đây là bà Hiền, Nguyễn Khải, thông qua nhân vật “tôi”, vẫn có khả năng tạo được sự tán đồng của người đọc khi ông đưa ra nhận xét : bà Hiền chính là một người Hà Nội, tuy chỉ là hạt bụi nhưng đó lại là hạt bụi vàng của đất kinh kì.

Scroll to Top