Dàn ý vẻ đẹp ngôn từ và tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
( Thông qua các đoạn trích đã học và bài đọc thêm )
– Vẻ đẹp ngôn từ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
- Từ Hán Việt, điển cố được sử dụng rất đúng chỗ và sáng tạo.
- Từ thuần Việt được sử dụng khéo léo, tinh tế.
- Lời thơ lục bát cổ điển (nhiều tiểu đối, ẩn dụ, phép sóng đôi…)
- Từ ngữ phong phú, sáng tạo. .
– Nhận xét, đánh giá:
- Nguyễn Du có một vốn liếng ngôn từ phong phú, một năng lực sáng tạo và sử dụng từ ngữ tài hoa.
- Truyện Kiều của Nguyễn Du xứng đáng là tập đại thành về ngôn ngữ của văn học dân tộc.
Đọc thêm các bài phân tích văn mẫu mới 10
Bài làm văn mẫu
Nhận xét về ngôn ngữ Truyện Kiều, Đào Nguyên Phổ viết: “Truyện Kiều” là một khúc Nam âm tuyệt xướng còn Giáo sư Lê Trí Viễn thì cho rằng: Trình độ lời thơ được phổ cập đến mọi người. Quả thực, trong mọi thành công của cuốn Đoạn trường tân thanh thì ngôn ngữ là một trong những phương diện làm nên vị trí bậc thầy của Nguyễn Du trong văn học dân tộc. Qua một số đoạn trích, chúng ta có thể cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp ngôn từ của Truyện Kiều. Ngôn từ trong Truyện Kiều đẹp trước hết bởi cách sử dụng từ Hán Việt và các điển cố của Nguyễn Du. Truyện Kiều là một truyện thơ Nôm những nhà thơ đã khéo léo đưa vào một số lượng tương đối các từ Hán Việt và các điển tích, điển cố Hán. Điều đáng nói là các từ ngữ, các điển tích, điển cố đó được dùng rất đúng chỗ và sáng tạo.
Với Thúy Kiều, trao duyên cho em là một việc hết sức hệ trọng. Nàng coi việc cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim là chuyện lớn, nghiêm túc, khẩn thiết chứ không chỉ phải đơn thuần chỉ là chuyện gá nghĩa hay “tình chị duyên em”. Vậy nên, trong đoạn trích Trao duyên, Nguyễn Du đã sử dụng linh hoạt khá nhiều từ ngữ Hán Việt: tương tư, mệnh bạc, dạ đài, tình quân, Kim lang. Đặc biệt, khi để Kiều gọi Kim Trọng là “Kim lang”, nhà thơ muốn khẳng định rằng trong tâm tưởng, nàng đã coi Kim Trọng là chồng, tình nghĩa giữa hai người đã rất sâu đậm và cũng bởi thế, nỗi đau trong lòng nàng khi phải đứt tình là vô cùng sâu sắc.
Trong Truyện Kiều, Thúy Kiều và Từ Hải là những nhân vật lí tưởng, được Nguyễn Du rất mực yêu mến, trân trọng. Khi viết về các nhân vật này, nhà thơ thường ưu tiên lựa chọn các từ ngữ Hán Việt để ngợi ca, tôn vinh. Tác giả gọi Từ Hải là trượng phu, để Từ Hải nói những lời lẽ dứt khoát mà trang trọng, đẹp đẽ:
Từ rằng: “Tâm phúc tương trì,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tỉnh bình,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tỉnh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia…”
Cùng với các từ Hán Việt, nhà thơ còn đưa vào lời thơ các điển tích, điển cố:
– Đập dầu lá gió cành chim, .
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh.
– Mặc người mưa Sở, mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì. –
– Tiếng sen đã động giấc hòe
– Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần.
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Tham khảo các bài phân tích Truyện Kiều
Các điển tích, điển cố được Nguyễn Du bố trí vào những văn cảnh nhất định khiến người đọc dẫu không biết điển cố, điển tích đó vẫn nắm được nội dung chính của câu thơ. Chẳng hạn nếu chưa hề biết Tống Ngọc Trường Khanh là những danh sĩ nổi tiếng thời Chiến quốc và thời Hán thì việc đặt giữa các câu thơ Biết bao bướm lả ong lơi, Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm, Dập dìu lá gió cành chim, chúng ta cũng có thể đoán biết Nguyễn Du muốn nói đến những khách phong lưu, sang trọng đến với Kiều ở chốn lầu xanh. Hay với điển tích gió mây bằng, nếu không biết điển Trang Tử nói chim ở bể Bắc mỗi lần bay thì tung cánh như đám mây ngang trời, bay một hơi chín vạn dặm mới nghỉ thì người đọc cũng có thể hiểu lời thơ của Nguyễn Du mang ý nghĩa ngợi ca người anh hùng đội trời đạp đất Từ Hải.
Cái tài của Nguyễn Du trong việc sử dụng các điển tích, điển cố không chỉ ở đó mà còn ở khả năng thâu tóm các điển cố, điển tích ấy trong một vài từ ngắn gọn, nôm na. Chẳng hạn, với điển tích xưa một người có vợ đẹp lấy vàng đúc những đóa hoa sen lót xuống nền nhà cho vợ bước lên rồi nói :“Từng bước nở hoa sen”, nhà thơ đã khéo léo đúc gọn trong hai chữ tiếng sen vừa gợi hình, gợi thanh mà lại gợi cảm. Tương tự, điển tích giấc mơ gốc hòe cũng được tác giả viết bằng hai tiếng giấc hòe.
Với cách dùng các từ ngữ Hán và các điển cố, điển tích như thế Nguyễn Du đã làm giàu cho kho từ vựng ngôn ngữ tiếng Việt, tránh được hiện tượng trùng lặp mà vẫn đảm bảo cách gieo vần uyển chuyển khiến âm hưởng câu thơ trở nên trang trọng.
Không chỉ sử dụng từ Hán Việt tài tình, Nguyễn Du còn rất thành công trong việc sử dụng từ ngữ thuần Việt. Cái tài của Nguyễn Du không đơn thuần chỉ là viết Truyện Kiều dài 2354 câu thơ bằng chữ Nôm mà ở chỗ thi nhân thực khéo léo trong cách lựa chọn các từ ngữ. Trong Trao duyên, ông đã rất tỉnh tế khi để Kiều dùng từ các từ cậy, chịu lời:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”
Sở dĩ nhà thơ lựa chọn từ cậy thay vì từ nhờ là bởi cậy còn có ý tin chắc người khác nhất định sẽ nghe mình. Cũng vậy, chịu lời và nhận lời có vẻ như nhau nhưng chịu lời là nhận lời làm việc không do mình tự nguyện hoặc một việc khó chối từ. Hai chữ mặc em hàm ý giao phó trách nhiệm và như vậy thì làm sao Thúy Vân có thể chối từ được..
Tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Du còn được thể hiện ở việc sử dụng tài tình lời thơ lục bát cổ điển. Toàn bộ Truyện Kiều được viết bằng thể lục bát, trong đó tác giả có sử dụng nhiều tiểu đối, ẩn dụ, phép sóng đôi… Trong Nỗi thương mình, nhà thơ đã khai thác triệt để các hình thức đối xứng nhằm tô đậm nỗi thương thân xót phận của nhân vật Thúy Kiều. Đối xứng ở cấp thấp
nhất là tiểu đối trong bốn chữ: bướm lả / ong lơi, lá gió / cành chim, dày gió / dạn sương, bướm chán / ong chường, mưa Sở / mây Tần, gió tựa / hoa kề. Đây là thủ pháp chẻ những cụm từ thông thường tạo thành quan hệ đối xứng nhằm nhấn mạnh mức độ cao hơn của nội dung cụm từ không có tiểu đối. So sánh bướm ong lả lơi với bướm lả ong lợi, ta thấy nếu tách hai yếu tố bướm -ong, lả – lơi ra và đặt ở thế đối xứng thì rõ ràng thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ được tô đậm, nhấn mạnh hơn, gây cảm giác xót xa hơn. Đối xứng ở cấp tiểu đối trong khuôn khổ một câu có Khi tỉnh rượu / lúc tàn canh hay Nửa rèm tuyết ngậm / bốn bề trăng thâu. Đối xứng kiểu này có giá trị nhấn mạnh sự liên tục, kéo dài của sự việc hay cái mênh mông của không gian. Trong. đoạn trích, chúng ta còn bắt gặp lối đối xứng tạo nên giữa hai câu thơ lục /bát: Khi sao phong gấm rủ là / Giờ sao tan tác như hoa giữa đường (đối lập gay gắt giữa quá khứ êm đêm hạnh phúc và hiện tại đầy nghiệt ngã), Mặt sao dày gió dạn sương / Thân sao bướm chán ong chường bấy thân! (nhấn mạnh có ý so sánh: thân thể còn đau khổ khổ hơn là sự bẽ bàng chua chát trên về mặt); Mộc người mưa Sở mây Tên / Những mình nào biết có xuân là gì (đối lập người / ta). Các hình thức đối này có chức năng khác nhau tuỳ theo mỗi cặp đối, nhưng đều có tác dụng nhấn mạnh ý cần nói, tạo điều kiện nhìn nỗi niềm thương thân xót phận của nhân.vật từ nhiều góc nhìn khác nhau (chuyển đổi góc nhìn). Trong một khuôn khổ hết sức cô đọng của câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã có thể khai thác triệt để các khả năng tu từ có thể có để “tăng hiệu suất” tối đa.
Với Truyện Kiều, vốn từ vựng tiếng Việt được mở rộng nhờ năng lực sáng tạo từ ngữ tuyệt vời của Nguyễn Du. Căn cứ vào đặc điểm về âm thanh và ngữ điệu, nhiều khi nhà thơ đã dịch những từ ghép gốc Hán và những thành ngữ gốc Hán ra thành những từ ngữ Hán Việt. Chẳng hạn, trong câu thơ Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây., từ Hán Việt tuyên đài đã được tác giả dịch thành chín suối. Hoặc có khi ông tự ghép các từ ngữ lại với nhau, tạo thành những từ ngữ mới để gọi tên cho các sự vật như mảnh hương nguyễn (mảnh trầm hương đốt trong buổi Thúy Kiều thể nguyễn với Kim Trọng), tờ mây (tờ giấy có trang trí hình mây, ghi lời thề thủy chung của Kim – Kiều).. Bằng những cách tân trong việc sử dụng từ ngữ như thế, Nguyễn Du đã làm giàu thêm cho ngôn ngữ tiếng Việt.
Nguyễn Du là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Sáng tác của ông không chỉ có Truyện Kiều nhưng chỉ với tác phẩm này thôi, thông qua đẹp ngôn từ, chúng ta cũng có thể hình dung được tài năng nghệ thuật của thi nhân. Phải có một vốn liếng ngôn từ phong phú, một năng lực sáng tạo và sử dụng từ ngữ tài hoa, Nguyễn Du mới có thể viết nên Truyện Kiều – tập đại thành về ngôn ngữ của văn học dân tộc.
Xem thêm các bài viết của tác giả Nguyễn Du