Bài thơ Đồng Chí – Phân tích bài thơ Đồng Chí – Soạn bài Đồng Chí
ĐỒNG CHÍ
“Chính Hữu”
Ai cũng đã từng có những tuổi 20 sôi nổi và tràn đầy nhiệt huyết. Với nhà thơ Hữu Thỉnh cũng vậy. Đã từng có những tuổi 20 trào dâng cảm xúc,là tuổi 20 được đứng dưới ngọn cờ soi sáng của cách mạng. Sống một cuộc đời ý nghĩa khi được hy sinh vì lý tưởng cao đẹp,vì Tổ Quốc thân yêu.
Hoàn cảnh sáng tác bài Đồng Chí
Giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp đau thương và cũng bi hùng nhất của dân tộc(1946-1954). Hữu Thỉnh cũng như hàng triệu thanh niên Việt Nam thời bấy giờ lên đường nhập ngũ. Trong những tháng ngày sống giữa rừng hoang sương muối, chứng kiến tình đồng đội gắn bó và thiêng liêng ông đã viết lên bài thơ “Đồng chí”.Như là một lời ngợi ca về tình cảm cao cả và thiêng liêng giữa những người lính cụ Hồ.
“Đồng chí” được Hữu Thỉnh sáng tác năm 1948 khi ông đang tham gia chiến dịch Việt Bắc. Là một trong những bài thơ tiêu biểu mà ông viết về đề tài người lính cụ Hồ. Bài thơ được in trong tập “Đầu súng trăng treo”. Mở đầu bằng những câu thơ:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”
“Anh với tôi “,chúng ta đều đến từ những vùng quê khác nhau. Quê anh là vùng đất ven biển ngập mặn, phèn chua.Còn quê tôi là vùng đất cằn sỏi đá của Hà Tĩnh. Chúng ta buổi đầu khi gặp nhau là người xa lạ ,nhưng đã có một điểm chung là đều đến từ những vùng quê nghèo và vất vả. Theo tiếng gọi của Tổ Quốc,chúng ta cùng lên đường chiến đấu. Đem theo hành trang ra trận là bầu nhiệt huyết và hừng hực khí thế của tuổi 20…
Ngay những vần thơ đầu tiên ,Hữu Thỉnh đã sử dụng những ngôn từ rất mộc mạc. Như là sự giới thiệu hết sức chân thành của những người lính khi họ lần đầu tiên gặp nhau trên chiến trường. Giọng thơ thật nhẹ nhàng và trong sáng biết bao. Từ sự xa lạ ban đầu,những người lính cùng sống, cùng chiến đấu bên nhau để rồi hình thành nên tình cảm gắn bó tri kỷ và cuối cùng là tình đồng chí cao cả và thiêng liêng.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Hình ảnh trong câu thơ này thật giàu sức tưởng tượng.”Súng bên súng” biểu tượng cho lý tưởng, là mục đích của những người lính. Họ đến đây là cùng chung lý tưởng cao đẹp, sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ Quốc. Nhìn thấy quân giặc giày xéo quê hương,những chàng trai 20 khi ấy lòng căm hờn ngút ngàn.
Chỉ cần Tổ Quốc gọi tên họ sẵn sàng dâng hiến xương máu.Chỉ vì một mục đích duy nhất là đất nước sạch bóng quân thù. Còn gì đẹp và thiêng liêng hơn nữa.Từ “Đồng chí” thốt lên với cảm xúc trân trọng biết bao.
Ngoài tình yêu quê hương, tình cảm gia đình, tình yêu nam nữ thì bây giờ giữa những người lính đã có thêm tình đồng chí.Tình cảm ấy hòa quyện trong tình yêu lớn đối với Tổ quốc. Đọc đến đây thôi chúng ta đã cảm thấy ngưỡng mộ vô cùng .Có những tuổi 20 thật đáng tự hào. Nhà thơ Thanh Thảo đã từng viết rằng:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình .
Nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc.
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ Quốc?”.
Là rằng tuổi 20 ai cũng tiếc nhưng tình yêu Tổ Quốc nó to lớn và mãnh liệt vô cùng. Với thanh niên giai đoạn bấy giờ, cuộc đời chỉ có ý nghĩa khi họ được cầm súng ra trận bảo vệ đất nước. Thế nhưng trong lòng họ vẫn còn những trăn trở về quê nhà – nơi chôn rau cắt rốn.Bởi vì ở đó vẫn còn:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Những bờ xôi ruộng mật gắn bó với những người nông dân. Nhưng bây giờ phải cầm súng ra trận đành gửi lại nhờ người cày cuốc. Gian nhà trống rách nát chưa kịp sửa sang,nay đành gác lại mặc kệ gió lung lay. Bởi mối bận tâm duy nhất lúc này là “Tổ Quốc”.
Rồi những giếng nước,gốc đa -những hình ảnh gắn bó với cả tuổi thơ .Nay xa cách không biết bao giờ mới trở lại. Nên sẽ “ nhớ “ biết bao. Tình cảm da diết đó được nhà thơ thể hiện vô cùng chân thành qua những hình ảnh quê nhà mộc mạc và gần gũi.
Đối với ông và tất cả những người lính lúc bấy giờ,sẵn sàng gạt bỏ những mối bận tâm cá nhân. Những trăn trở và tình cảm riêng tư để vì một lý tưởng cao cả và thiêng liêng là giải phóng đất nước.
Những câu thơ tiếp theo nhà thơ gợi lên cho chúng ta hình ảnh thật đẹp về sự sẻ chia giữa những người đồng đội :
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Chiến đấu ở vùng rừng núi Tây Bắc,những người lính đã chịu rất nhiều khó khăn và gian khổ. Khi mà bệnh tật ,thiếu thốn thuốc men,lương thực vô cùng trầm trọng. Đó là tình cảnh chung của quân đội ta lúc bấy giờ .Những cơn sốt rét hoành hành,cơ thể người lính rệu rã ,xanh xao. Quần áo không đủ mặc chắp vá khắp nơi ,trong khi phải chiến đấu trong điều kiện rừng sâu nước độc lạnh giá .Nhưng tất cả những khó khăn đó không hề làm nhụt chí những người lính cụ Hồ.
Hình ảnh “miệng cười buốt giá “ hiện lên thật sinh động và đầy lạc quan.Vẫn còn đó những nụ cười dù rằng kề bên có thể là thiếu ăn ,thiếu mặc thậm chí là cái chết.Phẩm chất cao đẹp của người lính cụ Hồ thể hiện thật rõ nét qua những hình ảnh này.
Dù trong hoàn cảnh nào ,thiếu thốn đến đâu ,người lính vẫn lạc quan, yêu đời và nêu cao tinh thần chiến đấu .Bởi họ biết rằng bên cạnh họ còn có những đồng đội luôn sẻ chia, đồng cam cộng khổ và thậm chí là sẵn sàng hy sinh..Còn sau lưng họ là người thân ,là quê hương nơi chôn rau cắt rốn.Tất cả những điều đó trở thành đồng lực ,sức mạnh để họ vượt qua mọi thử thách ,gian nan ,hướng tới thắng lợi cuối cùng.
Bài thơ khép lại với một hình ảnh đẹp và thi vị:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Khung cảnh hiện ra thật đẹp và thơ mộng. Giữa những ngày chiến đấu cam go và ác liệt ,giây phút đứng tuần canh gác lúc này có lẽ là yên bình nhất đối với họ. Hình ảnh hai người lính đứng bên cạnh nhau giữa rừng đêm bao la và huyền ảo,trong tư thế “chờ giặc tới”. Một tâm thế sẵn sàng và đầy tự tin.Niềm tin về thắng lợi của cuộc kháng chiến,về chính nghĩa của những người cầm súng bảo vệ Tổ Quốc mình.
Một bức tranh vẽ ra ở câu thơ cuối cùng với hình ảnh ánh trăng yên bình và lãng mạn. Ánh trăng đồng hành cùng người lính khắp mọi nẻo đường hành quân.Dù bất cứ nơi đâu trong rừng núi sâu thẳm, ánh trăng vẫn len lỏi và soi rọi cho những bước chân của người lính. Trăng trở thành người bạn thân thuộc và gắn bó giúp người lính không cảm thấy lẻ loi và cô đơn một mình. Hình ảnh trăng treo đầu sung thật ý nghĩa biết bao. Ánh trăng là tượng trưng cho quê hương, là mong ước về một cuộc sống yên bình không tiếng bom đạn. Còn khẩu súng chính là sự chiến đấu để giành lấy những mong ước về cuộc sống tự do,về một đất nước sạch bóng quân thù.
Chiến tranh đã đi qua từ lâu , đất nước ngày hôm nay đã hoàn toàn độc lập tự do và trên đà phát triển .Nhưng những hy sinh và cống hiến của thế hệ cha ông ,những người lính cụ Hồ sẽ mãi không bao giờ lãng quên trong trái tim của những người dân Việt Nam.
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu như là một minh chứng về một trong những giai đoạn đau thương và cũng oai hùng nhất của dân tộc. Bài thơ gợi lên cho chúng ta về một tình cảm cao đẹp và thiêng liêng: tình đồng chí ,cũng như lý tưởng,nhiệt huyết của những thanh niên giai đoạn bấy giờ .