Tiểu sử nhà thơ, nhà viết phú Nguyễn Bá Lân (1701 – 1785)
Nhà thơ, nhà viết phú Nguyễn Bá Lân. Quê gốc : huyện Tiên Du, tỉnh , Bắc Ninh. Quê ngụ từ đời tổ thứ ba làng Cổ Đô, huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây, nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Thân sinh là Nguyễn Công Hoàn, nổi tiếng về văn chương, học thức, thường vừa dạy con, vừa đua tài cùng con. Ông đậu Tiến sĩ khoa thi năm Tân Hợi (1731) niên hiệu Vĩnh Khánh 3, làm quan trải bốn triều, chức đến Thượng thư, hàm Thiếu bảo, tước Lễ Trạch hầu, bậc ngũ lão hầu chúa. Nguyễn Bá Lân “là người có văn học, chất phác, thẳng thắn, mạnh dạn dám nói” (Việt sử thông giám cương mục), đã từng sung làm học sĩ trong Bí thư các cùng với Lê Quý Đôn. Khi Lê Quý Đôn bị kẻ đồng liêu xúc xiểm, bị giáng chức, ông đã xin cho Lê Quý Đôn được phục chức. Nguyễn Bá Lân là người thông minh, hiếu học, kiến thức uyên bác, có tài văn chương, được đương thời tôn xưng là một trong “An Nam đại tứ tài” (Bốn tài năng lớn đất An Nam) hoặc “Tràng An tứ hồ”.
Tác phẩm của nhà thơ, nhà viết phú Nguyễn Bá Lân
Tác phẩm: Về thơ còn một số bài thơ chữ Hán vịnh nhân vật, hành vi, sự vật, danh thắng… trong sử sách Trung Quốc, được chép trong tập Vịnh sử thi quyển cùng một số tác giả khác như Ngô Trác Luân, Nguyễn Tuấn Cảnh, Nguyễn Tông Quai. Ông hiện còn bài phú Nôm nổi tiếng Ngữ ba Hạc phú (phú Ngã ba Hạc) và một số bài phú chữ Hán.
Ngã ba Hạc phú gồm 26 liên, ở phần cuối, vần và đối không được chỉnh, có lẽ là do tam sao thất bản. Cảm hứng của tác giả trong bài phú là ca ngợi triều đại đương thời, thể hiện niềm yêu mến tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước và cuộc sống đậm đà phong vị dân tộc. Ca ngợi triểu đại đương thời, Nguyễn Bá Lân đứng trên quan điểm chính thống, tô hồng hiện thực với những cảnh xã hội thái bình thịnh trị, nhân dân hòa lạc, cơ nghiệp nhà vua vững vàng. Điều này làm hạn chế ít nhiều tính hiện thực và tính tư tưởng của tác phẩm. Tuy nhiên, giá trị không thể phủ nhận của Ngã ba Hạc Phú là tác giả đã thể hiện chân thành và xúc động lòng yêu mến tự hào đối với non sông đất nước. Dưới ngòi bút của thi nhân, thiên nhiên và cuộc sống đều đậm đà phong vị dân tộc, được thể hiện qua lời văn biển ngẫu tiếng Việt bình dị, dân dã mà vẫn lưu loát, uyển chuyển, cân xứng nhịp nhàng. Tác giả đã sử dụng sáng tạo thành phần ngôn ngữ dân tộc như các từ thuần Việt, từ láy, thành phần ngôn ngữ đời sống với các từ khẩu ngữ. Những điển cố Hán học được dùng xen điển cố lấy từ nguồn văn liệu dân tộc, lớp từ gốc Hán được Việt hóa, làm cho bài phú trở nên thanh thoát. Điểm nổi bật trong bút pháp nghệ thuật của Ngữ ba Hạc phú là cách viết tả thực và trào lộng. Cách viết này vừa đưa tác phẩm vượt ra khỏi những chế ước của khuôn sáo, công thức, vừa mở hướng cho sự tìm tòi, sáng tạo những phương thức diễn đạt mới của văn học tiếng Việt.
Tham khảo thêm tư liệu các nhà văn, nhà thơ, tác giả khác