Dưới đây là một số dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài chi tiết do Vanmau.com biên soạn cho các bạn tham khảo.
Dàn ý Phân tích Vợ chồng A Phủ
I. Mở bài
– Đôi nét về tác giả
– Hoàn cảnh sáng tác
– Nội dung chính của tác phẩm
II. Thân bài
1. Xuất thân của Mị và A Phủ
– Mị là một cô gái dân tộc Mèo, xinh đẹp và tài giỏi, có đời sống nội tâm và khát vọng tự do, vì hoàn cảnh gia đình quá nghèo nên cô dã phải làm dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá tra.
– A Phủ là một chàng trai người dân tộc Mèo, có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống học hỏi đủ thứ nghề.
2. Cuộc sống của Mị khi ở nhà Thống Lí Pá Tra
– Mị từng là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi, khát khao được yêu. Để cứu nạn cho cha, cô đã phải làm dâu để gạt nợ, với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất là tôi tớ. Mị xuất hiện trong không gian ấy như một cái bóng, suốt ngày cúi mặt im lặng. Đó vẫn chưa phải nỗi đau đớn thật sự. Nhà văn đã tìm ra sự thê thảm của nhân vật, đó là ý chí của Mị bị mài mòn. Trong đầu Mị, những suy nghĩ khát vọng, âm thanh sắc màu thời xưa cũ đã mờ dần, thay vào đó là cái phải nhớ, quanh quẩn lặp đi lặp lại tẻ ngắt như một vòng tròn nặng nề không lối thoát: ” Mị cúi mặt không nghĩ nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt … con ngưạ, con trâu làm còn có lúc nghỉ..đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu làm việc cả đêm cả ngày”.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu | Làm văn mẫu
– Mị bị hành hạ về thể xác, bản thân thì bị đánh, bị trói và từng chứng kiến không biết bao nhiêu người bị hành hạ đến chết. Và rồi hành động của cô tê liệt “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
– Bị cấm đoán trong việc hòa nhập với thế giới bên ngoài. Bị chồng trói, dùng bạo lực với mình. Bên trong thể xác của Mị là tâm hồn cô đơn trống rỗng. Nhà văn đã xây dựng đoạn truyện đầy ẩn dụ về căn buồng của Mị, giúp người đọc hình dung được nỗi đau tột cùng của kiếp người nô lệ.
– Sau cuộc nổi loạn trong đêm tình mùa xuân, những tưởng cô gái ấy lại tiếp tục cam chịu, tiếp tục cuộc sống mê muội ở nhà Thống Lí Pá Tra, nhưng vì lòng thương người, Mị cứu A Phủ va vì sợ chết Mị chạy theo A Phủ và giải thoát cho mình
3. Sự vùng dậy của Mị và A Phủ
– Vì đánh con quan, sau vụ sử kiện A Phủ đã bị thống lí Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt đời cho nhà hắn để trừ nợ. Tuy vậy, với bản lĩnh gan góc, không chịu khuất phục sẵn có, A Phủ nhất định không chịu chết chôn chân ở cái cộc gỗ ấy mà anh luôn tìm cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Nhưng chưa kịp dứt ra thì trời vừa sáng, Pá Tra lại tròng thêm vào cổ A Phủ một vòng dây trói nữa. Và dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen của anh chính là những giọt nước mắt của sự cay đắng, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Cũng chính vì trông thấy những giọt nước mắt đau đớn và tuyệt vọng ấy mà Mị đã bùng lên ngọn lửa đấu tranh, quyết định cởi trói cho A Phủ và cho chính mình.
– Hình ảnh A Phủ cùng Mị trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra, giác ngộ được chân lý cách mạng là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc.
4. Nghệ thuật
– Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc
– Nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhân vật Mị và A Phủ
– Tái hiện cuộc sống và vẻ đẹp thiên nhiên, phong tục tập quán của người dân miền núi Tây Bắc
III. Kết bài
– Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm đã tái hiện được cuộc sống của những người dân nghèo miền núi khi chưa có lí tưởng cách mạng. Tác phẩm là sự lên án tội ác của bọn thống trị và khẳng định sức sống ngoan cường, khát vọng tự do ở người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc.
Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Tô Hoài đã kể lại rằng: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương, để nhớ trong tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi hốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: Chéo lù! Chéo lù!”. Có lẽ đây chính là lí do để ông viết tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” như lời tri ân dành cho con người nơi rẻo cao Tây Bắc.
Truyện ngắn này được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1952) và được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh Tây Bắc với những phong tục, tập quán riêng biệt. Ở phần một của tác phẩm, Tô Hoài đã chủ yếu khắc họa cuộc sống của nhân vật Mị và A Phủ khi họ ở Hồng Ngài, sống cuộc sống nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra.
Trước khi về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu đời, yêu cuộc sống tự do. Mị có tài thổi sáo giỏi, “thổi lá cũng hay như thổi sáo” khiến “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tuy sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, ngày xưa bố mẹ phải vay tiền để cưới nhau, đến khi mẹ Mị chết vẫn chưa trả hết nợ nhưng Mị luôn có ý thức về cuộc sống của mình. Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” khi thống lí muốn bắt Mị về làm con dâu gạt nợ. Đó là tiếng nói của sự phản kháng tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ tiền bạc của các dân tộc miền núi. Lệ tục cổ hủ này đã cướp đi cuộc sống tự do của biết bao con người. Đồng thời câu nói ấy cũng thể hiện niềm tin vào sức sống của bản thân trong con người Mị. Mị tin rằng mình có thể làm nương ngô để trả nợ thay cho bố.
Nhưng Mị đã bị A Sử cướp và đem về “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời của Mị đã gắn liền với số phận của người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Cô phẫn uất, đau đớn cho chính thân phận của mình. Có đến hàng mấy tháng, đêm nào cô cũng khóc. Mị định tự tử bằng lá ngón nhưng cô “không đành lòng chết” vì thương bố. Có lẽ chết là cách tốt nhất để Mị giải thoát cuộc đời nô lệ, Mị sẽ không phải xót xa hay căm hờn gì nữa.
Từ thái độ phản kháng, Mị trở nên cam chịu hoàn cảnh. Mị đã quen với cái khổ, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa” quần quật làm việc cả ngày lẫn đêm không được nghỉ ngơi. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, quay sợi, dệt vải, chẻ củi, cõng nước,…cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” thúc giục cô phải làm. Phải chăng vì thế mà “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Càng ngày, Mị càng câm lặng, chấp nhận số phận mà không một lời oán trách. Khuôn mặt cô dù trong hoàn cảnh nào cũng “buồn rười rượi”. Người phụ nữ ấy đã bị những khổ cực làm chai lì cảm xúc, mất hết ý niệm về thời gian, không gian vì buồng Mị nằm có cái cửa sổ có một lỗ vuông bằng bàn tay, “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Tưởng rằng Mị đã vô cảm với thế giới bên ngoài nhưng chính thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân mà âm thanh của tiếng sáo là tác nhân khơi dậy lòng yêu đời, sức sống trong con người Mị. Tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn bấy lâu ngủ quên của cô. Mị cảm nhận được âm hưởng ‘thiết tha bổi hổi” của tiếng sáo gọi bạn đi chơi. Không khí của những ngày Tết khiến Mị “sống về những ngày trước”. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như nuốt trôi đi tất cả niềm phẫn uất vào trong. Tâm hồn Mị “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã có ý thức về bản thân, cô nhận ra mình vẫn còn trẻ và muốn được đi chơi ngày Tết. Mong muốn đã chuyển sang thành hành động: “Mị lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” rồi quấn lại tóc, “lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” sửa soạn đi chơi. Tiếng sáo lửng lơ, mời gọi khiến Mị không thể chối từ. Cô đã thực sự hồi sinh và lột xác để thoát ra khỏi vòng áp chế của các thế lực cường quyền, thần quyền, phu quyền. Nhưng ý định của Mị chưa thực hiện được thì cô đã bị A Sử trói đứng vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Dường như Mị đã quên đi nỗi đau về thể xác để tâm hồn đi theo những cuộc chơi. Tiếng chân ngựa đạp vào vách đưa Mị trở về thực tại, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thân phận làm dâu gạt nợ nhà thống lí không khác gì thậm chí là không bằng thân phận của những con vật như con trâu, con ngựa.
Ẩn đằng sau con người cam chịu đó là một sức sống tiềm tàng đến mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua chi tiết Mị cắt dây trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài. Đây cũng là hành động cởi trói, tự giải thoát cho chính mình. Nó xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân” của cô. Mị đã tự giải thoát cho mình khỏi sự áp bức, đè nén của cường quyền, thần quyền, phu quyền. Hành động tuy có tính tự phát nhưng vô cùng hợp lí.
Không chỉ khắc họa thân phận người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa thân phận của người đàn ông miền núi chịu cuộc đời nô lệ. Đó là A Phủ, anh mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ, không có người thân thích. Anh trở thành món hàng để đổi lấy thóc của người Thái nhưng “A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”. Tuy nghèo khó nhưng A Phủ biết lao động để tự nuôi sống bản thân. Anh biết “đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Vì thế nhiều cô gái đã ví có được A Phủ “cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Con người A phủ có sự gan góc, biết vượt qua khó khăn, khổ cực và nguy hiểm. Anh sống tự do, gần gũi với thiên nhiên nhưng vì tội đánh con thống lí mà phải chịu thân phận nô lệ.
A Phủ đánh A Sử không phải do tính cách hiếu chiến, ngang tàn mà là do anh không chấp nhận sự thống trị, lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy một con người tự do, phóng khoáng trở thành một con người cam chịu số phận. A Phủ phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn nhưng anh “chỉ im như cái tượng đá”. Anh đã chấp nhận cuộc đời đi ở trừ nợ cho nhà thống lí. Vì mải mê bẫy chim mà A Phủ để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng “dây mây quấn từ chân đến vai”. Tình cảnh này đã lay động được tình thương, lòng đồng cảm của Mị. Cô nghĩ rằng: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” và Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” phần nào cho thấy khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ của anh. Anh đã thức tỉnh để đến với khu du kích Phiềng Sa, tham gia vào cách mạng.
Truyện “Vợ chồng A Phủ” chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả.Thông qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài muốn tố cáo chế độ phong kiến và giai cấp thống trị bóc lột con người bằng hình thức cho vay nặng lãi. Vì món nợ của cha mẹ mà Mị bị mang ra làm vật thế mạng. Ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu như “cúng trình ma” đã buộc con người vào vòng mê tín, khiến họ không dám thoát ra vòng vây để tự cứu lấy mình. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện lòng xót xa, cảm thông với những người dân lao động miền núi phải cam chịu sự áp bức của tầng lớp thống trị thủ đoạn, gian ác. Tô Hoài ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp họ giải thoát họ khỏi cuộc đời nô lệ để đến với cách mạng, đến với cuộc sống tự do.
Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn đã xây dựng nên hai nhân vật đại diện cho những con người có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu nhân vật tâm trạng và A Phủ tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật của con người trong thiên truyện là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc tuyệt đẹp: “gió thổi vào gianh vàng ửng”, “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Đây là những chi tiết nghệ thuật giàu tính tạo hình. Cùng với đó là các phong tục, tập quán như tục bắt vợ, cảnh phạt vạ, cảnh xử kiện được hiện lên độc đáo. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi từ điểm nhìn của người đi xa về đến điểm nhìn của người trong cuộc nên vừa mang tính khách quan lại vừa chứa chan sự cảm thông với nhân vật. Ngoài ra, Tô Hoài còn xây dựng những chi tiết giàu sức gợi và ý nghĩa như chi tiết tiếng sáo, tiếng chân ngựa đạp vào vách,… Ngôn ngữ văn xuôi đậm chất thơ cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn bao quát, toàn diện về bức tranh cuộc sống của người dân Tây Bắc. Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó thì còn vang mãi. Và tuy Tô Hoài đã ra đi nhưng những tác phẩm của ông vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng bạn đọc hôm nay và cả mai sau.
Dàn ý Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ
1. Mở bài
Có lẽ Tô Hoài là nhà văn đã từng có sự gắn bó sâu sắc với đất và con người Tây Bắc, ông đã từng phải thốt lên rằng: “đất và người Tây Bắc đã để thương để nhớ trong tôi nhiều quá”. Chính bởi nỗi niềm đó, ông đã dành riêng một tập truyện viết về núi rừng Tây Bắc đó là tập “truyện Tây Bắc”. Vợ chồng A phủ là một trong những câu chuyện được rút trong tập đó. Có thể nói tình yêu thương Tây Bắc được Tô Hoài gửi trọn vẹn trong nhân vật Mị.
2. Thân bài
1. Trước khi về làm dâu
– Mị được coi là một cô gái với khá nhiều đức tính tốt. Cô là một người con của núi rừng Tây bắc xinh đẹp, tài hoa, chăm chỉ, hiếu thảo và tự do, cô có tình yêu đẹp và niềm tin vào cuộc sống tương lai tươi sáng. Tuy nhiên, từ khi sinh ra cô cô đã phải gánh trong mình những món nợ, món nợ về cường quyền và món nợ về thân quyền đè nặng lên vai cô.
– Có lẽ yêu tây bắc như nào thì Tô hoài gửi gắm tình yêu vào nhân vật Mị bất nhiều, ông đã mang bao yêu thương phủ lên đời Mị những ánh hào quang rực rỡ nhất của một người đàn bà. Mị xinh đẹp “những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị”. Mị có tài thổi sáo khiến “biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” …. Mị sống trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, tràn trề cơ hội được hưởng thụ tình yêu và hạnh phúc. Cô cũng đã có người yêu, một tình yêu đẹp với ngón tay đeo nhẫn và hiệu gỗ vách hẹn hò.
– Bên cạnh vẻ đẹp tài năng trong con người Mị thì bản chất của một người lao động chân chính vẫn không mất đi trong con người Mị. Cô vẫn là một cô gái của bản làng, của núi rừng. Mị biết cuốc nương, làm ngô và sẵn sàng làm nương ngô trả nợ cho bố mẹ. Mặc dù vậy cô vẫn luôn yêu đời và yêu tự do, không ham giàu sang phú quý, cô đã từng nói, từng xin bố rằng “bố đừng bán con cho nhà giàu con sẽ làm nương ngô trả nợ cho bố”.
– Tuy nhiên, cuộc đời Mị không theo ý muốn của cô, cô không thể tự quyết định cuộc đời của mình được. Mị đã phải bước chân về nhà Thống lý Pá Tra ép sống kiếp dâu con mà như thân phận nô tì để gạt nợ cho cha.
2. Mới về làm dâu
– Đang là một cô gái trẻ đẹp với bao khát vọng về cuộc sống hạnh phúc và tươi sáng nơi tương lai, Mị như chết đứng với số phận tại đây. Về nhà thống lý Pá tra làm dâu gạt nợ, Mị âm thầm chịu đựng nỗi đau “có đến mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc”. Cô sẵn sàng quên hết đi tất cả để tìm đến cái chết khi ý thức được cuộc sống và tháng ngày sau này mình sẽ phải chịu đựng như thế nào, cuộc sống thật không đáng sống. Đã nhiều lần Mị có ý định như vậy, cô vào rừng hái nắm lá ngón, giấu vào trong tay áo và về quy lạy bố để chết. Nhưng bởi vì một chữ hiếu mà Mị không đành lòng nhìn bố mẹ mình chịu khổ cực. Mị đành từ bỏ ý định, cô ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi khát vọng hạnh phúc của cuộc đời mình vậy. Mị đã coi việc làm dâu con trong nhà thống lý pá tra như làm kiếp trâu ngựa để trả nợ cho cha mẹ năm xưa.
3. Khi làm dâu đã quen
– Người ngoài không biết nhìn vào Mị nghĩ Mị được làm dâu trong nhà giàu có chắc cuộc sống hạnh phúc và sung sướng lắm. Tuy nhiên thực tế, thân xác và tinh thần của Mị luôn bị hành hạ. Thời gian và công việc đã làm tê liệt tinh thần của cô, hàng ngày vẫn là công việc đó, bên cạnh chuồng ngựa khiến tinh thần Mị bị tê liệt. Mị đã quen dần với cái khổ cực nơi đây.
– Mấy năm sau bố Mị mất, giờ thì cô không còn nghĩ đến cái chết nữa “ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi”.
+ Sức sống của Mị trỗi dậy: khi mùa xuân trời đất đến
+ Diễn biến tâm lý, hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân
=> Khát vọng sống, niềm khao khát hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Nó giống như ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một làn gió mát lành thổi tới là có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động ngoại cảnh là không nhỏ nhưng sức mạnh tiềm tàng mới là điều quyết định sức sống của Mị.
+ Cứu a phủ và cùng nhau chạy trốn: thương tình cho số phận của một người nghèo khổ cũng như mình, Mị cùng cứu a phủ chạy trốn.
+ Diễn biến tâm trạng của Mị
– Dửng dưng thổi lửa hơ tay không quan tâm đến A phủ
– Dòng nước mắt của A Phủ vô tình mà đầy hữu ý đã làm hồi sinh trái tim đầy thương tích của Mị.
– Mị chạy theo A Phủ, hành động tự giải thoát khỏi sợi dây trói vô hình của thần quyền. Sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng làn này đã giúp Mị đập tan sức mạnh của thần quyền và cường quyền để tự giải.
3. Kết bài
Khác với hoàn cảnh trong đêm tình mùa xuân lần này Mị không chỉ có một mình đơn độc. Cả A Phủ và Mị đều là những người giàu sức sống, khi sức sống tiềm tàng trong mỗi cá nhân tỏa sáng và kết hợp với nhau sẽ tạo thành sức mạnh giải phóng cho người, khi sự đồng cảm giữa những người cùng cảnh ngộ kết hợp với ý thức phản kháng đấu tranh tạo thành sức mạnh đấu tranh giai cấp thì sức sống trong mỗi cá nhân sẽ được nhân lên bội phần tạo ra những kết quả bất ngờ mà tất yếu. Mấy câu cuối đoạn văn A Phủ nói: “Đi với tôi ! Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” như chấp chới như cánh chim bay mở đầu, như hối hả những dòng chảy tung phá, đời người đàn bà ở nợ cất mình khỏi nấm mồ tăm tối, đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui.
Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ
Tô Hoài là một trong những tấm gương sáng về tinh thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề của một người viết văn xuôi ở Việt Nam.
Ông đã có hơn nữa thế kỷ cầm bút. Ông đã được chủ tịch nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I -1996). Nhà văn đã gửi đến chúng ta một khối lượng tác phẩm nhiều đến mức đáng khâm phục: hơn 100 quyển sách với nhiều thể loại khác nhau. Tuy nhiên những trang viết thực sự đạt chất lượng cao của cây bút này thể hiện ở ba mảng đề: đề tài miền núi Tây Bắc, đề tài vùng quê thành Hà Nội và các đề tài dành cho thiếu nhi. Chỉ xét riêng về đề tài miền núi Tây Bắc, truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ trong tập truyện Tây Bắc (1953) là một thành tựu nổi bật của Tô Hoài. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công xuất sắc hình tượng nhân vật Mị, đặc biệt là đoạn cô bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra đến khi trốn khỏi Hồng Ngài.
Trước hết, chúng ta thấy Mị là một cô gái con nhà nghèo, xinh đẹp, ham sống, có đời sống tinh thần phong phú. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết rồi cũng chưa trả hết nợ. Nhưng đó không phải là lý do để các chàng trai tốt bụng xà Mị. Trái lại, đến tuổi yêu đương, Mị được nhiều chàng trai mê say vì sắc đẹp. vì phẩm hạnh, suốt đêm đứng thổi sáo xung quanh vách hoặc thổi sáo đi theo Mị. Và bản thân Mị cũng thổi sáo giỏi, hát hay. Mỗi khi tiếng sáo vọng lại, lòng Mị cũng thiết tha bổi hổi rồi ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Mặc dù ham sống như thế nhưng có lúc Mị muốn tự kết liễu cuộc đời mình trong lần trốn về nhà bố. Thật ra, vì ham sống nên Mị không chấp nhận kiếp sống tủi nhục, chết ngay trong cõi sống. Nhưng với Mị, thời điểm ấy, cái chết là phương tiện để giải thoát chứ không phải là mục đích của Mị.
Mặt khác, Mị là cô gái sớm gặp bất hạnh, đau khổ đến cùng cực đồng thời còn là một nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần. Vào một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách mà cứ ngỡ là tiếng hò hẹn của người yêu, Mị bèn nhấc tấm vách gỗ thì bị A Sử bắt về làm vợ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Bao nhiêu mộng đẹp của lứa tuổi xuân thì mơn mởn bị chôn vùi. Sự trinh trắng của người con gái bị A Sử cướp đoạt. Mị đau buồn có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Mị đã hái lá ngón ở trong rừng, giấu trong áo rồi trốn về nhà lạy chào cha lần cuối để tự tử. Nghe lời than vãn, phân trần của người cha ốm yếu, Mị không đành chết bởi lẽ Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. cho nên, Mị đành phải trở lại nhà thống lý để làm nô lệ. Mị bị giày xéo bị chà đạp gần như chỉ còn là công cụ biết nói: Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa (…) Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa. Mị bị cướp đoạt công sức một cách tàn nhẫn : con ngựa con trâu làm có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. đàn bà con gái trong nhà này thì vùi vào làm việc cả ngày lẫn đêm. dường như Mị bị chai lì mọi cảm giác đến mất cả đời sống ý thức: mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng trăng trắng không biết là sương hay nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi. Sở dĩ Mị an phận như thế là do bọn thống lý Pá Tra đã đưa vào đầu óc cô những tư tưởng mê tín dị đoan khá cay độc.Ở dân tộc H’mông thời trước có những hủ tục: người con gái khi bị “trình ma” thì coi như cuộc đời trở nên đen tối từ lúc ấy: nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con. Và nếu chồng lại chết, lại vẫn phải ở với người đàn ông khác trong nhà ấy! . (Tô Hoài – cảm nghĩ về truyện Vợ chồng A Phủ). Do đó, Mị đã tin một cách tuyệt đối : ta là thân đàn bà, nó đã bắt tâ về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.
Thế nhưng, Mị là một cô gái có sức sống tiềm tàng, một khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. không có sự bạo tàn nào vùi dập, trói buộc nổi, nhất là khi được ngoại cảnh tác động. khi mùa xuân tràn về các làng Mèo, trai gái tụ tập bên nhau nô đùa, nhảy múa, thổi sáo gọi bạn tình, Mị đã sống lại những chuỗi ngày tự do. Ngồi trong căn phòng tăm tối, Mị lén uống rượu uống ừng ực từng bát mà bên tai vẫn văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng. dù chẳng năm nào A Sử cho cô đi chơi tết, nhưng cô rất khao khát được đi như bao cô gái khác cùng trang lứa. Hành động của Mị góc nhà lấy ống mỡ, xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, chứng tỏ cô không cam chịu bóng tối ngột ngạt, u ám của kiếp nô lệ phong kiến. trong phút giây, Mị đã quên đi cảnh ngộ thực tại để hành động theo tiếng gọi giục giã , tha thiết, rạo rực, cháy bỏng từ trái tim khát khao hạnh phúc, tình yêu của bản thân mình, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách chuẩn bị đi chơi. Bất ngờ, A Sử đã tàn nhẫn trói đứng cô vào cột nhà, quấn luôn tóc trên cột. Nhưng cái kiểu trói thời trung cổ ấy của A Sử vẫn không dập tắt được lòng ham sống vẫn âm ỉ, tiềm tàng trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo du dương trầm bổng, tượng trưng cho sức sống mùa xuân của tuổi trẻ mạnh đến nỗi tuy Mị bị trói nhưng vẫn không biết mình đang bị trói. tiếng sáo đã đưa cô đi theo những cuộc chơi, những đám chơi, và Mị cố vùng bước đi trong cảnh bi thảm: tay chân đau không cựa được. Tuy cả đêm ấy Mị phải trói đứng, khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức nhưng trong lòng cô vẫn nồng nàn tha thiết nhớ cuộc vui.
Thật dữ dội làm sao cái sức sống ấy đặc biệt hình ảnh a Phủ bị trói đứng một lần nữa lại đánh thức nơi Mị nỗi tủi nhục của than phận “không bằng con ngựa” của mình đồng thời khơi dậy lòng trắc ẩn tiềm tàng trong cô. A Phủ là một chàng trai tràn trề sinh lực, lao động giỏi, con nhà nghèo, bố mẹ chết sớm, lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê, do cùng bọn con trai làng sinh sự đánh nhau với A Sử vào dịp chơi tết. A Phủ bị “bắt sống, trói gô chân tay lại” khiêng về nhà Thống lý. Từ đó, anh phải đi ở trừ nợ cho nhà Pá Tra. Trong một lần chăn bò, chẳng may hổ ăn thịt mất một con bò, Pá Tra đẩy A Phủ vào cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây quấn từ chân lên vai, sang hôm sau Pá Tra quẳng thêm một vòng thòng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không cúi, không còn lúc lắc được nữa”. Nhìn cảnh ngộ A Phủ lúc đầu, Mị hãy còn thái độ thản nhiên, sau đó, trông thấy thứ ngôn ngữ câm lặng phát ra từ dòng nước mắt của A Phủ, cô xúc động, thương cảm và đồng cảm với anh. Đồng thời, giọt nước mắt ấy như tiếng gọi thiêng liêng của tính giai cấp và ý thức phản kháng đối với Mị: Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sang lên, Mị lé mắt trông sang, thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị , Mị cũng phải trói đứng như thế kia. Nhiều lần hóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cỡ chừng này là đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Vì thế, Mị liền hành động một cách táo bạo, “phiến loạn” quyết liệt. Cô cởi trói cho A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài, chạy sang Phiền Sa: Lúc ấy, trong cảnh nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng A Phủ đương biết có người bước lại. Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phì từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng :”đi ngay…” rồi Mị nghẹn lại, A Phủ bỗng khụy xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm, nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy (…) và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Hành động trên đây có xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân “, từ sự thôi thúc cấp bách của cảnh ngộ hiện tại, từ tiếng gọi thiêng liêng, bất tử của cuộc sống độc lập – tự do. Cô cởi trói cho A Phủ cũng là từ cởi trói xiềng xích đang đè nặng lên chính cuộc đời của mình, Cứu A Phủ là Mị đã cứu mình một lúc vượt qua hai tầng địa ngục đày đọa con người một cách dã man: tầng địa ngục phong kiến và tầng tầng địa ngục mê tín – thần quyền. Thật đáng biểu dương làm sao cho hình ảnh hai con người trẻ tuổi, nhựa sống mãnh liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt, bật tung như quả bom to đang ra sức tung phá giữa khu vực cần phải hủy diệt. Đúng như một nhà nghiên cứu văn học đã nhận xét: Không ai trói buộc được sự sống, kìm hãm được sự sống. Tóm lại, Mị là một hình tượng nhân vật phụ nữ có tính chất điển hình cho mảng truyện viết về đề tài miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân đô hộ của nhà văn Tô Hoài nói riêng cũng như của dòng văn học Việt Nam giai đoạn 1945-4975 nói chung.
Qua hình tượng nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả thực trạng cuộc sống bị áp bức, đề nén, chà đạp đến cùng cực, nhàu nát của số phận những con người nhỏ bé nơi miền núi cao Tây Bắc, tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến nơi ấy đồng thời phát hiện nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người tập trung ngòi bút ngòi bút ngợi ca sức sống tiềm tàng của họ. Đó cũng chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo toát lên từ nhân vật trung tâm của thiên truyện hấp dẫn này.
Dàn ý Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà văn Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
– Giới thiệu về nhân vật Mị và tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân.
2. Thân bài
* Trước đêm tình mùa xuân
– Mị bị đày đoạ và áp chế nên sống như một người vô hồn, hoàn toàn mất đi ý thức.
– Mị sống lầm lũi qua ngày nhưng không có nghĩa là mất hẳn đi sức sống. Sức sống vẫn tiềm tàng trong con người Mị và chỉ cần có cơ hội là nó sẽ bùng cháy lên mạnh mẽ.
* Trong đêm tình mùa xuân
– Bối cảnh bên ngoài tác động lên tâm trạng của Mị. Mùa xuân nhiều màu sắc và rộn rã âm thanh khiến Mị muốn ra ngoài.
– Mị uống rượu đến say khướt. Trong cơn say Mị nhớ lại những ngày còn được tự do.
– Thế giới được đánh thức trong lòng Mị đối lập với cuộc sống thực tại.
– Mị có ý định giải thoát mình, giải thoát khỏi cuộc sống như ngục tù.
– Mị không thực hiện được ý định vì đã bị A Sử bắt lại.
– A Sử trói thân xác Mị nhưng tâm trí của Mị vẫn lạc ra ngoài kia.
=> Mị dù không tự giải thoát được thân xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm tưởng của mình.
3. Kết luận
– Nêu cảm nhận của em về tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
Tô Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam, các sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường với lối viết giản dị, gần gũi, thông tục. Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc. Tác phẩm xoay quanh số cuộc sống của nhân vật Mị, đặc biệt là diễn tả diễn biến nội tâm của cô trong từng giai đoạn và đêm tình mùa xuân là một cảnh tác động lớn diễn biến tâm lí và hành động của người con gái vùng núi này.
Vì sao sau bao nhiêu năm sống lầm lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa, chấp nhận cuộc sống chẳng bằng con trâu, con ngựa, sức sống của Mị lại chợt hồi sinh trong đêm tình mùa xuân? Phải chăng không khí mùa xuân đến bất ngờ cùng hội xuân, sắc áo váy rực rỡ và những cuộc chơi đã ảnh hưởng đến Mị? Hay chẳng phải sắc màu cũng chẳng phải hương xuân mà chính là tiếng sáo thân quen. Tiếng sáo gọi bạn tình vốn đã quen thuộc, đi vào nếp sống của người dân Hồng Ngài, họ dùng tiếng sáo để thể hiện tình yêu, để nói lòng mình. Nghe tiếng sáo, Mị lại bồi hồi nhớ lại quá khứ của mình, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, hình ảnh tiếng sáo quan trọng đến mức được lặp lại hơn mười lần trong tác phẩm. Tiếng sáo tuy giản dị, mộc mạc nhưng lại khiến lòng người thiết tha bồi hồi, bởi nó tượng trưng cho tình yêu trai gái. Tiếng sáo khơi dậy trong người con gái vốn tưởng đã chết về mặt tinh thần sống lại quá khứ tươi đẹp, cái ngày mà cô thỏa sức vùng vẫy trong tự do và tình yêu. Chính tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến sức sống tiềm tàng trong Mị. Bên cạnh tiếng sáo, men rượu cũng là một yếu tố khiến Mị có sự thay đổi. Mị uống ực từng bát, uống như một tên sâu rượu, Mị uống để quên đi hiện tại khốn khổ, nhục nhã và cũng để không nhớ đến tương lai mờ mịt, không có gì để hi vọng. Hành động uống rượu ấy đã nói lên nỗi oan khuất đau buồn trong trái tim người con gái nhưng cũng tiếp thêm sức mạnh để người con gái ấy bừng tỉnh sức sống.
Từ những chất xúc tác từ bên ngoài ấy cùng bản chất mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, Mị đã hồi sinh cảm xúc trong đêm tình mùa xuân. Nghe tiếng sáo, Mị bỗng cảm thấy tha thiết, bồi hồi. Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy khiến Mị nhớ về quá khứ – một quá khứ tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hi vọng có thể sống lại một lần nữa. Ngày ấy, Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo, tài năng cùng với sắc đẹp của nàng khiến bao chàng trai Hồng Ngài mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy, Mị thấy phơi phới trở lại và cô nhận ra mình vẫn còn trẻ. Thật kì lạ khi người ta không biết trạng thái của bản thân ra sao để rồi một ngày chợt nhận ra mình vẫn còn trẻ. Điều ấy chẳng khác nào bao ngày qua, Mị không biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một cái xác và đêm nay, cô mới chợt tỉnh, nhận thức được mình vẫn còn trẻ, mình vẫn còn sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó. Điều đầu tiên cô muốn làm khi sống lại cảm giác chính là muốn đi chơi. Bao năm rồi, kể từ khi bị gả về nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều không đi chơi xuân, mặc dù những người đàn bà có chồng khác vẫn đi chơi. Mị muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít, chỉ có một ôi cửa sổ nhỏ, hằng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa. Cô bắt đầu sửa soạn, cô lấy chiếc váy hoa, cho thêm mỡ vào đèn để thắp sáng căn phòng tăm tối và quấn tóc. Đây là những hành động được coi là phản kháng của Mị, cô đã bắt đầu có những phản ứng với cuộc sống, đã hồi sinh cảm xúc. Nhưng ngay khi ngọn lửa sức sống đang bùng cháy mạnh mẽ thì lại bị dập tắt, con người tàn nhẫn ấy không ai khác chính là A Sử – con trai thống lí và cũng là chồng Mị. Hắn đột nhiên về nhà và thấy lạ khi thấy Mị sửa soạn đi chơi. Con người ấy đã trói Mị lại, độc ác hơn, hắn lấy tóc Mị quấn quanh cột, không cho Mị cử động. Nhưng dù bị trói, hơi rượu vẫn nồng nàn trong Mị, chi phối lí trí cô. Cô nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình của ai kia mà như gọi lòng cô, bất giác cô bước đi, cô muốn đi theo tiếng sáo tình yêu ấy, đó mới chính là cuộc sống đáng lẽ cô được hưởng. Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm cô bừng tỉnh. Cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng thân phận mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Đau xót thay.
Sự hồi sinh sức sống của Mị trải qua cả một quá trình diễn biến từ những cảm xúc hồ tưởng về quá khứ đến hành động phản kháng muốn đi chơi và cuối cùng nhận thức ra một điều quan trọng. Lúc trước, Mị đã coi mình là con trâu, con ngựa nhà thống lí mà đã là con trâu, con ngựa thì không có suy nghĩ, chúng chỉ biết ăn và làm việc mà thôi nhưng lúc này Mị đã hiểu ra, trong ngôi nhà này, đến cả con trâu, con ngựa mình cũng không bằng. Sự hồi sinh sức sống này do nguyên nhân khách quan là tiếng sáo và men rượu nồng nó chưa đủ sức mạnh để tạo nên những hành động mạnh mẽ để tự giải thoát mình, chính vì thế sau đó, Mị lại trở lại cuộc sống như cũ.
Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí cùng việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, thông dụng, Tô Hoài dường như đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh một người con gái mạnh mẽ, tuy đã bị vùi dập, tưởng chỉ còn cái xác không hồn nhưng bên trong vẫn tiềm tàng ẩn chứa sức sống mãnh liệt, chỉ tìm cơ hội để hồi sinh, để bùng cháy.
Dàn ý Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ
I. Mở bài
– Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953. Truyện được giải nhất cửa Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
– Tác phẩm là bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động. Nhân vật chính kết tinh được phẩm chất cao đẹp và thể hiện rõ giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo của tác phẩm và nhân vật Mị.
II. Thân bài
* Trước khi làm dâu gạt nợ, Mị là một cô gái hầu như tập trung được những vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ miền núi: Mị vừa đẹp người, vừa đẹp nết, cần cù, đảm đang, hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, ham sống, yêu đời và rất mực tài hoa.
* Khi về làm con dâu cho nhà thống lí, Mị đã phản kháng bằng nước mắt: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cao hơn một mức nữa, Mị đã định tự hủy diệt cuộc đời mình bằng nắm lá ngón. Nhưng lòng hiếu thảo – vì thương bố còn khổ hơn bây giờ bao nhiêu lần, đã níu kéo Mị trở về kiếp sống ngựa trâu. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, những hủ tục phong kiến nơi miền núi, Mị gần như tê liệt hết về sức sống, Mị thờ ơ với sự chảy trôi của thời gian, sắc màu cuộc sống của Mị trở nên mờ nhạt. Nó được biểu tượng bằng “Một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay”, “lúc nào cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Mị trở thành con người cam phận sống cuộc sống “thân phận con rùa”, “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
* Đoạn đời thứ 3: Sức sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân và hành động cởi trói cho A Phủ. Họ cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài, tìm đến khu du kích Phiềng Sa.
a. Mùa xuân về trên rẻo cao, đặc biệt là đêm tình mùa xuân với tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng gọi bạn tình có ý nghĩa như “một hoàn cảnh điển hình” làm cho sức sống tiềm tàng trong con người Mị trỗi dậy một cách mãnh liệt.
– Ngày Tết, Mị cũng uống rượu: “Mị… cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say”. Với những tác động của ngoại cảnh và men rượu, Mị đã thoát khỏi tâm trạng dửng dưng bấy lâu để trở thành con người thức tỉnh, vươn tới những ý nghĩ và khát vọng đẹp đẽ. Chú ý phân tích diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân: “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” -> lòng Mị đang phơi phới sống về những ngày trước. Mị thấy “trong lòng đột nhiên vui sướng… Mị trẻ lắm… Mị muốn đi chơi” -> Ý thức về bản thân trỗi dậy, Mị phẫn uất mãnh liệt và thấm thía nỗi tủi nhục của mình, Mị muốn chết -> trong khi đó, tiếng sáo, biểu tượng của khát vọng tự do và tình yêu tuổi trẻ “đang rập rờn” trong đầu Mị -> Mị khêu to ngọn đèn cho sáng như thể khêu ngọn lửa của lòng ham sống, của sự khát khao -> Hành động này thúc đẩy hành động khác, không thể kìm nén được nữa. Nó là sự thôi thúc của trái tim như muốn phá vỡ những xiềng xích tàn bạo trong nhà thống lí Pá Tra, thách thức mọi ràng buộc khắt khe của nhà Pá Tra, của người chồng tàn ác: “Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa” chuẩn bị đi chơi ngày Tết. Nhưng giữa lúc lòng ham sống trong Mị trỗi dậy, dâng lên mãnh liệt như sóng trào thì cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách khắc nghiệt, lạnh lùng. A Sử, chồng Mị thản nhiên “trói đứng Mị vào cột nhà” -> “Như không đang biết mình đang sợ bị trói… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”, quên mọi đau đớn về thể xác, “Mị đã vùng dậy bước đi”. Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm ẩn trong con người Mị mãnh liệt biết nhường nào.
b. Sức sống trỗi dậy trong con người Mị còn được thể hiện rõ nét ở hành động cởi trói cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài.
+ Bên cạnh bếp lửa, nhìn thấy A Phủ bị trói đứng một cách thảm khốc, mấy đêm đầu Mị vẫn thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người ở nhà Pá Tra xảy ra như cơm bữa. Vả chăng, Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực.
+ Nhưng đêm nay, dưới ánh lửa “bập bùng” trông thấy hai hàng nước mắt “lấp lánh” bò xuống hai hõm má đã “xám đen lại của A Phủ”, Mị càng thương mình, càng thương người. Tình thương, niềm đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ ấy đã lấn át nỗi sợ và lớn hơn cái chết, nó đã dẫn đến hành động táo bạo: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài.
+ Đây là hành động tuy tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị. Nó là một bước ngoặt trong tính cách và cuộc đời Mị. Ý thức được nỗi khổ của kiếp sống tủi nhục của mình, Mị đã vượt qua nhà ngục thống lí Pá Tra với biết bao thế lực hà khắc của cường quyền, hủ tục, lễ giáo phong kiến (con gái Mèo lấy chồng, suốt đời là cái đuôi con ngựa của chồng, chồng chết lại phải lấy anh hoặc em chồng).
III. Kết luận:
– Qua cuộc đời và số phận của Mị, Tô Hoài bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống cho người lao động, đặc biệt là người phụ nữ miền núi. Đồng thời, tác giả cũng cất lên bài ca ca ngợi phẩm giá cao đẹp của họ. Đó là ý nghĩa nhân đạo cơ bản của tác phẩm.
– Mị là một nhân vật rất thành công của văn xuôi hiện đại. Có được điều này là nhờ cái nhìn trân trọng, thương yêu đối với nhân vật của tác giả, đặc biệt là khả năng phân tích tâm lí sâu sắc, tinh tế của Tô Hoài.
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ
Vợ chồng A Phủ là chuyện thành công nhất trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. Trong truyện này, nhân vật Mị có hồn hơn cả. Mị có hai mặt tưởng như đối lập nhưng thực ra lại rất thống nhất. Mặt thứ nhất là Mị bị chà đạp nặng nề đã sinh ra buồn rầu và dần dần sinh ra cam chịu, mất cả sức sống. Mặt thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mỵ vẫn cựa quậy, vẫn tiềm tàng, tiềm ẩn một sức sống để từ đó bước vươn dậy và cuối cùng phá cũi tháo lồng và tìm lại được lẽ sống cho mình.
Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá-Tra là tấn bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời nàng. A Sử đối với nàng như đối với một người nô lệ. Nhưng vì nàng là người con gái giàu tình thương, có đức hi sinh nên nàng đành cam chịu để trừ nợ cho cha. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu con ngựa. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào công việc cả đêm cả ngày . Quá đau khổ, nàng đã phản kháng bỏ nhà Pá Tra trở về. Nàng định lạy cha rồi ăn lá ngón chết. Nhưng khi nghe cha nói: Mày về lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ Không được con ơi!. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá ngón rồi trở về nhà Pá Tra. Vì quá thương cha mà nàng đành cam chịu cuộc sống nô lệ ở nhà thống lí.
Nhưng trong tâm trạng, trong bản chất cuộc sống của Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt. Trong nỗi buồn, trong suy nghĩ, trong ý muốn tự tử của nàng đã biểu lộ tinh thần không muốn cam chịu, không muốn chấp nhận cuộc sống lầm than, tủi cực hiện tại. Sức sống bị đè nén chỉ cần có cơ hội là nó sẽ bộc phát. Những đêm tình mùa xuân đã tới, tâm hồn Mị bị xáo trộn. Nàng đã lắng nghe tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi:
Mày có con trai con gái rồiMày đi làm nươngTa không có con trai con gáiTa đi tìm người yêu
Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy hồi tưởng lại ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mùa xuân, Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác. Sức sống lại dạt dào trong lòng nàng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Tiếng sáo còn rập rờn trong đầu Mị, Mị quấn lại tóc, Mị mặc váy hoa. Ai bảo cô Mị chỉ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa? Dĩ nhiên tuổi xuân của nàng đã bị tàn phá. Sức sống của nàng đã bị đè nén. A Sử trói Mị lại, quấn tóc lên cột. Đóng cửa buồng rồi bỏ đi. Thật là tàn bạo, Mị vẫn đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi.
Em không yêu, quả pao rơi rồiEm yêu người nào, em bắt pao nào
Mị vùng vằng bước đi nhưng toàn thân đau nhức không cựa được. Sức sống tiềm tàng trong người Mị bộc phát thật là dữ dội.
Sức sống tiềm ẩn của Mị bộc lộ tột đỉnh trong hành vi nổi loạn giải thoát cho A Phủ và cho chính mình. A Phủ là người ở trừ nợ (vì đánh A Sử nên bị phạt vạ) trong nhà thống lí. A Phủ chăn bò bị hổ ăn mất một con. A Phủ bị trói. Đêm đêm, Mị dậy sưởi lửa thấy mắt A Phủ trừng trừng, biết A Phủ còn sống, Mị vẫn lạnh lùng vì đời Mị khổ quá, Mị chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử thấy Mị ở đây đã đập Mị ngã xuống cửa bếp nhưng trái tim của cô gái giàu yêu thương ấy lại thổn thức. Đêm khuya Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Cách miêu tả sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong lòng Mị bằng ngọn lửa bập bùng sáng lên thật là hay! Nàng nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ lại đêm A Sử trói Mị, nàng thốt lên trong lòng Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết! Nó đã trói chết một người đàn bà trong nhà ngày trước cũng ở chỗ này. Nàng nghĩ đêm mai là người kia chết. Người kia việc gì mà phải chết. Rồi nàng vận vào mình, biết đâu A Phủ trốn thoát, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó. Mị phải trói thay vào đó, Mị phải chết trên cái cọc ấy, Mị không thấy sợ. Đấy chỉ là những tư tưởng nổi loạn trong lòng Mị và từ tư tưởng nổi loạn đến hành động nổi loạn chỉ có một li. Mị đã rón rén bước lại gần A Phủ. Nàng rút con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây trói A Phủ. Mị thì thào: Đi ngay!. Mị cắt sợi dây trói A Phủ cũng chính là nàng đã cắt sợi dây vô hình trói nàng vào gia đình thống lí Pá Tra. Nàng đã chạy theo A Phủ, A Phủ nói: Đi với tôi và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi. Hình ảnh đó nói lên sự can đảm liều lĩnh của Mị. Hành động táo bạo này có ý nghĩa quyết định trong cuộc đời Mị. Mị và A Phủ đã nương tựa vào nhau và thành vợ chồng A Phủ để xây dựng cuộc đời mới. Hành động giải thoát của Mị có xen lẫn ý thức tự phát và tự giác. Có lẽ ý thức tự phát mạnh hơn. Đó chính là kết quả biểu lộ tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó. Hành động giải phóng và tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn rười rượi, từ cái cách uống ừng ực từng bát rượu và ngay cả ý định muốn tự sát của Mị.
Nguồn gốc sâu xa của hành vi đó là ở tấm lòng giàu tình cảm, giàu lòng thương người của Mị, còn nguyên do trực tiếp là tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân đã thức dậy trong tâm hồn nàng lòng yêu đời, niềm tha thiết với cuộc sống tự do.
Có thể nói sức sống tiềm tàng của Mị là sức hấp dẫn của nhân vật này trong thời gian Mị ở Hồng Ngài. Tô Hoài đã đặt Mị trong mối xung đột xã hội gay gắt, những thế lực tàn bạo của xã hội phong kiến thống trị của người H-mông đã chà đạp lên số phận của nàng, tưởng như nàng không còn con đường nào thoát khỏi sự hủy diệt. Vậy mà chính sức sống tiềm ẩn của nàng đã tự cứu nàng. Tô Hoài đã miêu tả một cách xuất sắc sự vận động nội tâm của nhân vật và dẫn đến hành động phản kháng tháo cũi phá lồng giải thoát. Chính sức sống mãnh liệt của Mị khi gặp ánh sáng cách mạng thì như hạt giống tốt gieo lên mảnh đất phù sa. Mị đã trở thành nhân tố tích cực trong đội du kích Phiềng Sa của A Phủ sau này cũng là điều dễ hiểu.
Kể lại truyện “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài
Mị là một cô gái dân tộc Mèo xinh đẹp và tài giỏi, có đời sống nội tâm và khát vọng tự do, vì hoàn cảnh gia đình quá nghèo nên cô đã phải làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
Khi mới về làm dâu, hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc Một hôm, Mị trốn về nhà, cặp mắt đỏ hoe. Gặp bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết rồi nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”. Mị bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón giấu trong áo xuống đất. Mị đành trở lại nhà thống lí. Mấy năm sau, bố Mị chết. Mị không nghĩ đến chuyện ăn lá ngón tự tự nữa, Mị tưởng mình như con trâu con ngựa, chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, hái củi, bung ngô, tước sợi đay… bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Mị lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Cái buồng Mị nằm, kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Nhìn ra ngoài, chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng, Mị nghĩ chỉ ngồi nhìn ra, đến bao giờ chết thì thôi.
Những đêm tình mùa xuân, trẻ con tụ tập trên sân chơi đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Mị nghe tiếng sáo ai rủ bạn đi chơi, thiết tha bồi hồi. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát khi trong nhà thống lí, tiếng chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng nhảy lên xuống, run bần bật. Mị lịm mặt ngồi nhìn người nhảy đồng, người hát. Mị nghe tiếng sáo văng vẳng gọi bạn đầu làng mà nhớ thời con gái, Mị có bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Khi mọi người đã về, chơi đã vãn cả, Mị vẫn ngồi trơ một mình. Mãi sau Mị đứng dậy đi vào buồng. Mị thấy lòng phơi phới trở lại, đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị muốn đi chơi, nhưng A Sử trói đứng Mị, hắn còn quấn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Hắn thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo, rồi tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại. Mị bị trói đứng suốt đêm trong buồng, tay chân đau không cựa được. Mị nghe tiếng sáo, tiếng chân ngựa đạp vào vách, tiếng chó sủa xa xa. Mị khóc, nín khóc, lại bồi hồi, lúc mê, lúc tỉnh.
Cùng số phận người ở không công như Mị là A Phủ. A Phủ là một chàng trai nghèo nhưng khỏe mạnh, dũng cảm gan góc, bộc trực hồn nhiên, cũng vì nghèo không có tiền nộp phạt cho nên anh ta đã bị tra tấn dã man. A Phủ trở thành kẻ đi ở trừ nợ cho nhà quan thống lí Pá Tra từ đấy. Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng. A Phủ trơ trọi một mình từ năm mười tuổi, từng bị bán đi cho người Thái ở dưới cánh đồng. Lưu lạc đến Hồng Ngài, đi làm thuê. A Phủ biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. Nhiều cô gái trong vùng mê. Không có bạc trắng, không có ruộng, không có bố mẹ nên A Phủ không thể lấy nổi vợ. Chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ nhưng trong những ngày Tết, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong rừng. Vì thế mà sinh sự đánh nhau với A Sử.
Vì một lần để mất bò nên thống lí Pá Tra đã bắt và trói anh một cách tàn nhẫn để cho A Phủ đói khát và chờ chết. Trong một đêm trở dậy để thổi lửa hơ tay, nhìn thấy A Phủ bị trói và cái chết đang đến gần, Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ, vì sợ chết Mị đã chạy chốn theo A Phủ, thoát khỏi địa ngục trần gian ở Hồng Ngài, thoát khỏi nhà Pá Tra. Họ đã đến Phiềng Sa, đã trở thành vợ chồng và xây dựng một cuộc sống mới.
✅ Văn mẫu lớp 12 ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐