Giới thiệu nhà thơ, nhà thiền học Trần Thái Tông (1218-1277)
Nhà thơ, nhà thiền học Trần Thái Tông, tên thật là Trần Cánh. Quê gốc : Tức Mặc, phủ Thiên Trường. nay thuộc Nam Định. Do sự sắp xếp của Điện tiền chỉ huy sứ triều Lý Trần Thủ Độ, Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng, vua nhà Lý (do Lý Huệ Tông không có con trai nhường ngôi cho). Năm 1225, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Trần Cảnh lên làm vua, lấy hiệu là Thái Tông, trở thành vua đầu tiên của triều Trần, phong Lý Chiêu Hoàng làm hoàng hậu. Nhưng vì lấy nhau gần chục năm mà hoàng hậu vẫn không sinh con nên Trần Thủ Độ lại ép Trần Cảnh phải bỏ Lý Chiêu Hoàng để lấy chị bà là Thuận Thiên, vợ Trần Liễu (anh ruột Trần Cảnh) khi đang có mang. Trần Liễu căm phẫn nổi binh chống lại, song thế yếu phải xin hàng. Trần Thủ Độ định giết Trần Liễu, nhưng Trần Thái Tông đã ra sức bảo vệ, sau đó lấy vùng đất Yên Sinh (thuộc huyện Đông Triều) cho Trần Liễu làm ấp thang mộc và phong là Yên Sinh Vương ở đất ấy. Bi kịch nói trên xảy ra năm Trần Thái Tông 20 tuổi. Có lẽ quá đau lòng vì chuyện này, nên một đêm Trần Thái Tông bỏ kinh thành lên núi Yên Từ đi tu. Trần Thủ Độ phải mang quần thần đến Yên Tử, cương quyết mời Trần Thái Tông trở về Thăng Long tiếp tục công việc trị vì đất nước. Hai mươi năm sau, Trần Thái Tông “tự làm tướng, đốc chiến đi trước xông pha giữa tên đạn” (Đại Việt sử ký toàn thị, đánh tan quân xâm lược Nguyên – Mông lần thứ nhất, trở thành người anh hùng trong lịch sử dân tộc.
Sau khi chiến thắng quân Nguyên – Mông, Trần Thái Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Hoảng (tức Trần Thánh Tông), lui về làm Thượng hoàng và chuyên chú vào việc nghiên cứu Phật học.
Tác phẩm của nhà thơ, nhà thiền học Trần Thái Tông
Tác phẩm của Trần Thái Tông có : Bài tựa Thiền tông chỉ nam, Bài tựu xách Chú giải kinh Kim cương Tam muội, Lục thì sám hối khoa nghi. Tất cả đều được ghi lại trong sách Khóa hư lực, một tác phẩm Phật học quan trọng do Trần Thái Tông viết vào thời gian ông làm Thái thượng hoàng (1258- 1277). Ngoài rà, Trần Thái Tông còn để lại một số bài thơ. Khóa hư lục có nghĩa là ghi chép quá trình tu luyện đạo Phật theo tinh thần kiên trì học tập, nhưng không cố chấp để bị trói buộc bởi những giáo điều, nhằm đạt tới sự chứng ngộ hoàn toàn tự do “Phật cũng không mà tổ cũng không, không cần trì giới, không cần niệm kinh…”. Đó cũng chính là tinh thần thực tiễn, phá chấp, khai – phóng. táo bạo của Phật giáo thiền tông đời Trần.
Nội dung cốt lõi của tư tưởng thiền học Trần Thái Tông được ông nói rõ Ở bài Tọa thiển luận (Bàn về ngồi thiền), “Người học đạo chỉ cần kiến tính”. “Kiến tính” là thấy tính. Tính là tâm, tâm là Phật, Phật tính có ở mọi vật, mọi người. Điều cốt yếu đối với một thiền gia là phải thấy rõ Phật tính trong mình.Khi thấy tính có nghĩa là thành Phật. Xuất phát từ tư tưởng “kiến tính thành Phật” để đi tìm chân lý nên trong cuộc đời, Trần Thái Tông không ngừng tự thức tỉnh, tính tiến vươn lên, sống và hành động phóng khoáng, dũng cảm. Hình ảnh Trần Thái Tông là hình ảnh một con người khi làm tướng đánh giặc thì “xông pha giữa tên đạn”, khi làm vua thì sẵn sàng “trút bỏ ngai vàng như trút bỏ đôi dép rách” (Ngô Thì Sĩ).
Khóa hư lực không chỉ là một tác phẩm chứa đựng những tư tưởng triết học Phật giáo sâu sắc, mà còn thể hiện rõ tác giả Trần Thái Tông là một con ` người có tâm hồn thi sĩ dạt dào cảm xúc trữ tình. Những bài kệ dưới hình thức – thơ thất ngôn, ngũ ngôn trong Khóa lu lực khá giàu hình tượng thi ca. Thí dụ bốn bài kệ nói về ngọn núi (Tứ sơn kệ) tượng trưng cho bốn giai đoạn của một đời người mà ai cũng phải trải qua, đó là sinh (núi thứ nhất), lão (núi thứ hai), bệnh (núi thứ ba), tử (núi thứ tư).
Cũng như tình yêu, cái chết đã trở thành một đề tài vĩnh cửu của văn học nghệ thuật thế giới xưa nay. Trần Thái Tông là một nhà thơ cổ Việt Nam viết về cái chết thật lạ và mới, khiến người đọc đến bàng hoàng. Trong bài kệ thứ: tư, để diễn tả cái chết, đúng hơn là để thức tỉnh nhân thế rằng, đời người chỉ là một ảo ảnh giữa bão giông, rồi sẽ biến mất, chỉ còn lại sự tĩnh lặng ngàn đời. Trần Thái Tông đã mượn hình ảnh ông chài say túy lúy trên chiếc thuyền câu mong manh trong cuồng phong và dòng sông với bóng trăng nhằm nêu lên triết lý về tính bất định, hư ảo của cuộc đời. Về phương diện văn chương, bài kệ này quả là một thi phẩm có hình tượng độc đáo, chứng tỏ Trần Thái Tông là một nhà thơ giàu tài năng. Tâm hồn thi sĩ của Trần Thái Tông được thể hiện rất đẹp qua bài Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn (Gửi nhà sư Đức Sơn ở am Thanh Phong) ông viết trong một đêm ở am Thanh Phong cùng với thiền sư Đức Sơn ngắm trăng khuya. Là một nhà thiền học xuất sắc , một ông vua anh hùng, một nhà thơ trữ tình tinh tế, Trần Thái Tông đã để lại trong lịch sử văn hóa dân tộc một dấu ấn đặc sắc không thể phai mờ.
Tham khảo thêm tư liệu các nhà văn, nhà thơ, tác giả khác