Tiểu sử nhà viết kịch Tào Mạt
Nhà viết kịch Tào Mạt, sinh ngày 22.11. 1930, mất ngày 13.4. 1993, tên khai sinh là Nguyễn Duy Thục (có lúc viết là Nguyễn Đăng Thục). Quê gốc : xã Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Ông mất tại Hà Nội.
Tào Mạt tự học là chủ yếu. Ông giỏi chữ Hán, viết chữ Hán rất đẹp. Ông cũng là người am hiểu nhiều lĩnh vực, đặc biệt là nghệ thuật chèo dân gian. Ông từng là chiến sĩ, Phó trưởng Đoàn văn công Quân khu II, chuyên viên văn hóa văn nghệ quân đội, cán bộ sáng tác Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm đại tá. Ông được tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1993.
Tác phẩm của nhà viết kịch Tào Mạt
Các tác phẩm chính : Cái ba lô (kịch – 1958), Chị Tâm bến Cốc (chèo – 1960), Trong phòng trực chiến (kịch – 1965), Đường về trận địa (chèo – 1966), Đỉnh cao phía trước (chèo – 1967), Nguyễn Viết Xuân (chèo, viết chung với Nguyễn Đức Thuyết – 1970), Bài ca giữ nước (ba vở, chèo – 1986), Những lời tâm huyết (tiểu luận nghệ thuật – 1993), Thơ chữ Hán Tào Mạt (1994). Ngoài ra, ông còn viết một số vở kịch khác, đã công diễn, nhưng chưa in. Tào Mạt đã được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.
Tuy bắt đầu cầm bút từ mấy năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng phải đến thời kỳ chống Mỹ, Tào Mạt mới bộc lộ thực sự tài năng viết kịch. Đính cao trong cuộc đời cầm bút của ông là bộ ba vở chèo Bài ca giữ nước. Tác phẩm kể về chuyện xưa, về phép trị nước của cha ông trong quá khứ một cách tài ba, trí tuệ. Đố cũng là những vấn đề rất gần gũi với cuộc sống hôm nay. Bài ca giữ nước thể hiện bước đột phá của Tào Mạt. Không những đổi mới về nhận thức, dùng chuyện xưa để ngẫm chuyện nay, Tào Mạt còn biết kế thừa tính hoa chèo truyền thống và nâng nó lên một trình độ mới, góp phần tạo nên sự hồi sinh của chèo, một bộ môn nghệ thuật có lúc tưởng chừng có nguy cơ bị mai một.
Tham khảo thêm tư liệu các nhà văn, nhà thơ, tác giả khác