Dàn ý tiếng khóc của Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí.
– Hầu hết sáng tác của Nguyễn Du (Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh, Phản Chiêu hồn, Sở biến hành, Long Thành cầm giả ca, Độc Tiểu Thanh kí…) là tiếng khóc nhân sinh đau đớn.
– Nguyễn Du khóc thương cho số phận bi kịch của nàng Tiểu Thanh một người con gái nổi tiếng tài hoa, xinh đẹp nhưng cuộc đời nàng mang nhiều bi kịch – với nỗi niềm cảm thông sâu sắc.
Tiếng khóc Nguyễn Du khởi phát từ nhất chỉ thư, nghĩa là “mảnh giấy”. Người nghệ sĩ đa mang không khóc thương cho những cái trọn vẹn đầy đặn mà lại xúc động trước cái mong manh, dở dang gắn liền với số phận của con người bạc mệnh.
– Tiếng khóc Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí còn hướng tới tất cả những người tài hoa, phong nhã, không phân biệt nam hay nữ (những kẻ phong uận).
Tiếng khóc ấy không chỉ chan chứa yêu thương mà còn rất chân thành, xúc động bởi lẽ tác giả đã tự đặt mình vào thế giới của những kẻ phong vận kia. Tự nhận là người cùng hội cùng thuyền cũng có nghĩa là nhà thơ thừa nhận sự tri âm, đồng điệu giữa bản thân mình và người thiên cổ đã đạt đến mức độ tuyệt đối. Đó là sự tri âm, đồng điệu giữa những con người tài hoa, bạc mệnh.
– Khóc cho người thiên cổ, nhà thơ lại đoái thương cho chính bản thân mình. Thương người, ngẫm bi kịch của người, khóc cho người rồi thương chính bản thân mình, điều đó cho thấy nhà thơ đã tự đặt mình vào số phận chung của những tấn bi kịch.
– Nhận xét, đánh giá: Độc Tiểu Thanh kí là.tiếng khóc đây đớn đau, nhức nhối của một tấm lòng nhân đạo hết sức cao cả. Nguyễn Du đâu chỉ khóc cho Tiểu Thanh, mà còn khóc cho bao số kiếp hồng nhan bạc mệnh, tài tử đa cùng như nàng, khóc cho quá khứ, hiện tại, tương lai, và khóc cho chính bản thân mình. Trái tim người nghệ sĩ đa cảm này dường như cả cuộc đời chỉ biết đập cho người khác.
Đọc thêm các bài phân tích văn mẫu mới 10
Bài làm văn mẫu
Đau đớn, xót thương cho mọi số kiếp khổ đau trong nhân gian là tình cảm lớn, xuyên suốt hầu hết sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du. Từ tập đại thành Truyện Kiều đến Văn tế thập loại chúng sinh, Phản Chiêu hồn, Sở biến hành, Long Thành cẩm giả ca, Độc Tiểu Thanh kí… ở tác phẩm nào chúng ta cũng được chứng kiến nỗi niềm đau đáu khôn nguôi của người nghệ sĩ có “con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân). Lo đời, thương người, nên suốt đời thơ Nguyễn Du là tiếng khóc nhân sinh đau đớn:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thu,
Chi phấn hữu phần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư,
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Có thể thấy ở hầu hết các sáng tác, Nguyễn Du luôn dành tiếng khóc lớn cho những người phụ nữ khốn khổ, những cô gái tài hoa bạc mệnh. Họ là Thuý Kiều, Đạm Tiên (Truyện Kiều), là người con gái đánh đàn ở đất Long Thành (Long Thành cẩm giả ca), là người mẹ nghèo khổ của bầy con nheo nhóc (Sở kiến hành)… Với Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du lại thêm một lần nức nở vì người con gái mang tên Tiểu Thanh. Tiểu Thanh là cô gái sống ở đầu đời Minh (Trung Quốc), tên thật là Phùng Huyền Huyền. Nàng nổi tiếng tài hoa, xinh đẹp nhưng sớm phải đem thân đi làm lẽ họ Phùng. Cuộc đời nàng mang nhiều bi kịch. Tiểu Thanh luôn bị người vợ cá của chồng ghen tị. Nàng phải dọn ra núi Cô Sơn để ở. Nàng mất khi chưa đầy mười bảy tuổi. Mọi tư trang, thư tịch của nàng bị người vợ cả đốt hết để hả lòng ghen giận. Nhan đề Độc Tiểu Thanh kí có thể hiểu là đọc những ghi chép về Tiểu Thanh hoặc đọc tiểu truyện về Tiểu Thanh sau đó ghi lại cảm xúc. Như vậy, có thể hiểu các ghi chép hay tiểu truyện ấy chính là nguyên cớ khiến nhà thơ của chúng ta đau đớn cất lên tiếng thơ “ai động đất trời” (Tố Hữu). Đọc bài thơ, bất cứ ai cũng nhận thấy tiếng khóc Nguyễn Du trước hết hướng tới số phận bi kịch của nàng Tiểu Thanh với nỗi niềm cảm thương dào dạt:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
(Cảnh đẹp ở Tây Hồ đã thành gò hoang cả rồi)
Tây Hồ vốn là một cảnh đẹp thuộc tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc trước đây vốn là nơi huy hoàng, thịnh vượng. Câu thơ đầu thể hiện triết lí sự nhìn nhận khái quát về thời cuộc: sự suy tàn, đổ nát của thời đại (xưa là vườn hoa đẹp, nay thành gò hoang trơ trụi, tiêu điều, tang thương). Sự đổi thay của thiên nhiên, cảnh vật được diễn đạt triệt để thông qua từ tận (còn có âm đọc khác là tẫn, nghĩa là hết, cùng), nó nhấn mạnh quy luật biến thiên dâu bể. Viết câu thơ này, chắc chắn Nguyễn Du không chỉ thơ thổn thức cho vẻ đẹp của quá khứ bị tiêu tan, tàn lụi trước năm tháng thời gian. Dường như nhà thơ còn ngầm ý muốn đặt bi kịch, số phận của người con gái trong mối quan hệ gắn kết với sự tàn lụi của thời đại. Điều này được khai triển cụ thể hơn ở các dòng tiếp theo:
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ)
Tiếng khóc Nguyễn Du khởi phát từ nhất chỉ thư, nghĩa là “mảnh giấy”. “Mảnh giấy” này là vật chứng lưu kí bao tâm sự của một con người “Mảnh giấy” khác với “quyển”. Mảnh giấy trước cửa sổ ám chỉ số phận chóng tàn, mong manh, khái quát về số phận, giá trị tinh thần bị huỷ hoại quên lãng, vùi dập, đương nhiên, trong đó có Tiểu Thanh. Người nghệ sĩ đa mang không khóc thương cho những cái trọn vẹn, đầy đặn mà lại xúc động trước cái mong manh, dở dang gắn liền với số phận của con người bạc mệnh. Điều đặc biệt là không có ai khóc cùng Nguyễn Du. Chữ độc đứng đầu dòng thơ nhấn mạnh tâm thế của tác giả – đó là tâm thế xót thương trong nỗi cô đơn. Chỉ riêng một mình nhà thơ thấm thía về cuộc đời, thân phận mong manh của con người. Suy cho rộng, Tiểu Thanh chính là cái cớ để Nguyễn Du thể hiện triết lí của mình về “tài mệnh tương đố”. Nói như vậy cũng có nghĩa Nguyễn Du không chỉ khóc thương riêng người con gái họ Phùng mà còn khóc cho biết bao thân phận phụ nữ khác:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều)
Tham khảo các bài phân tích Truyện Kiều
Nếu như dòng thơ đầu khái quát về sự hoang tàn, đổ nát của thời đại thì dòng thơ thứ hai nói lên thân phận của con người trong thời đại ấy. Đó chính là mối tương liên giữa số phận, cuộc đời người con gái này với cuộc biến thiên dâu bể. Từ quy luật mang tâm khái quát, lớn lao, Nguyễn Du đã đi vào trường hợp cụ thể là cuộc đời nàng: .
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
(Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết,
Văn chương không có thân mệnh mà cũng bị đốt dở.)
Tiếng khóc Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh hướng tới hai giá trị cụ thể là chỉ phấn (son phấn) và văn chương biểu trưng cho vẻ đẹp hình sắc và cái đẹp tâm hồn. Điều này không khó lí giải bởi lẽ ai cũng biết Tiểu Thanh là người con gái có nhan sắc và hết sức tài hoa. Son phấn có thần nên vẫn phải ôm hận kể cả sau khi chết, văn chương không có thân mệnh cụ thể nhưng phải chịu sự hành hạ, phải mang luy. Đó là cách chúng ta diễn giải để hiểu rõ hơn về hai dòng thơ này. Tiến sĩ Hán Nôm Hà Minh đã khái quát như sau: Son phấn là thân xác, nó phải chịu nỗi đau tinh thần: sau khi chết, văn chương là tỉnh thần nhưng lại phải chịu nỗi đau thể xác. Như vậy, cái đẹp nói chung đều phải chịu sự chà đạp. Nỗi đau thể xác và bi kịch tinh thần được đồng nhất trong số phận oan nghiệt của một cuộc đời. Lời thơ đong đầy nỗi niềm tiếc thương, xót xa, đau đớn. Nhan sắc ấy, tài năng ấy có lẽ đâu lại phải chịu đựng sự chà đạp phũ phàng nhường vậy? Phép đối đọc (chỉ phấn hữu thân – văn chương vô mệnh, liên tử hậu – lụy phần dư) càng khiến nỗi đau trở nên dai dẳng, mang ý nghĩa nhân loại. Nguyễn Du đã khóc cho bao nhiêu người con gái như Tiểu Thanh, đã nhỏ lệ cho bao nhiêu số phận cay đắng như nàng? Thật khó để kể cho hết. Nhưng có thể hiểu rằng, trước bất kì sự lụi tàn, đau đớn của một nhan sắc, một tài hoa- nghệ sĩ nào, nước mắt nhà thơ cũng tuôn rơi đầy xót thương và hết sức chân thành. Tiếng khóc Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh cũng chính là tiếng khóc nhà thơ dành cho những số kiếp “tài hoa bạc mệnh” như nàng. Sức khái quát của lời thơ, tình yêu thương mênh mông Nguyễn Du dành cho những số kiếp ấy không chỉ dừng lại ở đó:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được, ,
Ta tự coi là kẻ cùng một hội với con người phong vận mắc nỗi oan lạ lùng.)
Cổ kim hận sự là nỗi hờn về sự bất công của số phận. Nhà thơ nhận thức về quy luật “tài hoa bạc mệnh”, “tài tử đa cùng”, người tài hoa, trí tuệ thì số phận long đong. Đó là nỗi bất công ngự trị từ xưa đến nay, là bi kịch đã được khái quát hoá, được đồng nhất. Thêm nữa, từ cuộc đời của một người con gái, nhà thơ muốn hỏi cho rõ nguyên nhân gây nên bi kịch nói chung của thời đại chứ không riêng của dân tộc, thân phận cụ thể nào. Đến đây, có thể cảm nhận rất rõ rằng tiếng khóc của Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí không chỉ hướng tới cuộc đời, số phận cụ thể là nàng Tiểu Thanh mà còn hướng tới tất cả những người tài hoa, phong nhã, không phân biệt nam hay nữ (những kẻ phong uận). Tiếng khóc ấy không chỉ chan chứa yêu thương mà còn rất chân thành, xúc động bởi lẽ tác giả đã tự đặt mình vào thế giới của những kẻ phong quận kia. Điều đó chứng tỏ người nghệ sĩ của chúng ta ý thức rất rõ về bản thân mình. Ông nhận mình cũng là người, cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh: Tráng niên ngã diệc, vi tài tử. Không phải Nguyễn Du tự ngạo nhưng quả thật đúng như vậy. Số phận của Nguyễn Du, Tiểu Thanh đều bất hạnh như nhau. Tự nhận là người cùng hội cùng thuyền cũng có nghĩa là nhà thơ thừa nhận sự tri âm, đồng điệu giữa bản thân mình và người thiên cổ đã đạt đến mức độ tuyệt đối. Đó là sự tri âm, đồng điệu giữa những con người tài hoa, bạc mệnh. Vậy nên tiếng khóc của Nguyễn Du không phải là tiếng khóc của đấng tu mi nam tử đoái thương cho số phận người đàn bà mà là tiếng khóc của người trong cuộc, của người Cùng một lứa bên trời lận đận (Long Thành cầm giả ca). Chưa ai trả lời cho Nguyễn Du được nguyên nhân của bi kịch đó để rồi khóc cho người thiên cổ, nhà thơ lại đoái thương cho chính bản thân mình:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Không biết hơn ba trăm năm Sau,
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?)
Từ hiện tại, Nguyễn Du khóc thương cho quá khứ, cho người trong quá khứ và bất chợt, nhà thơ tự hỏi ba trăm năm sau sẽ ai khóc thương mình. Thương người, ngẫm bi kịch của người, khóc cho người rồi thương chính bản thân mình, điều đó cho thấy nhà thơ đã tự đặt mình vào số phận chung của những tấn bi kịch. Tiểu Thanh mệnh bạc nhưng ba trăm năm sau cũng có
người cùng hội cùng thuyền là Nguyễn Du thương xót. Nỗi đau của nàng đã được xoa dịu một chút nơi chín suối, Nhưng liệu rằng điều đó có lặp lại với ông? Ba trăm năm chỉ là con số ước lệ. Tri âm, tri kỉ đâu cần đến ba trăm năm mới xuất hiện? Đọc thơ văn Nguyễn Du, cảm nhận sâu sắc tấm lòng vị tha, đa mang của nhà thơ trước cuộc đời, trước con người. Bất cứ ai chẳng đông điệu, chẳng muốn tri âm với ông?
Câu hỏi của Nguyễn Du hướng tới tương lai chứ không đặt câu hỏi cho hiện tại, có thể vì ông không tìm thấy sự đồng cảm trong hiện tại. Đó là nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời cũng là một triết lí về thuyết “tài mệnh tương đố”. Ông thương cho người xưa, thương cho chính mình và thương cho cả người sau phải khóc mình. Sẽ còn có những trái tim đa cảm như Nguyễn Du, sẽ còn những giọt nước mặt khóc cho những số phận cay đắng của người nghệ sĩ tài hoa mà mệnh bạc.
Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ xúc động. Người đọc được lắng nghe một tiếng khóc đây đớn đau, nhức nhối, được chứng kiến một tấm lòng nhân đạo hết sức cao cả của người nghệ sĩ tài hoa đa truân. Nguyễn Du đâu chỉ khóc cho Tiểu Thanh, ông còn khóc cho bao số kiếp hồng nhan bạc mệnh, tài tử đa cùng như nàng, khóc cho quá khứ, hiện tại, tương lai, và khóc cho chính bản thân mình. Trái tim người nghệ sĩ đa cảm này dường như cả cuộc đời chỉ biết đập cho người khác vậy.
Xem thêm các bài viết của tác giả Nguyễn Du